Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11 ước tính đạt 19,2 tỷ USD, giảm 5,4% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2017 của Việt Nam đạt 193,8 tỷ USD, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 11 năm 2017, một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm so với tháng trước gồm: sắt thép giảm 25,4% (lượng giảm 27,4%); gạo giảm 15,5% (lượng giảm 13,1%); điện thoại và linh kiện giảm 14,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 13,4%; thủy sản giảm 12,4%; hạt điều giảm 6,4% (lượng giảm 4,7%); dệt, may giảm 3,5%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng: than đá tăng 53,3% (lượng tăng 50,4%); rau quả tăng 20,7%; xăng dầu tăng 13% (lượng tăng 8,4%); hóa chất tăng 9,5%; cao su tăng 7,1% (lượng tăng 11,5%). So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2017 tăng 19,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 20,3%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm 2016: Điện thoại và linh kiện tăng37,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28,7%.
So với cùng kỳ 11 tháng năm 2016, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng khá như Điện thoại và linh kiện đạt 41,3 tỷ USD, tăng 30,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,6 tỷ USD, tăng 38,1%; dệt may đạt 23,6 tỷ USD, tăng 9,5%; giày dép đạt 13 tỷ USD, tăng 11,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 11,5 tỷ USD, tăng 27%; thủy sản đạt 7,6 tỷ USD, tăng 18,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,9 tỷ USD, tăng 10,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 6,4 tỷ USD, tăng 16,2%; hạt điều đạt 3,2 tỷ USD, tăng 23,3% (lượng tăng 1,1%); rau quả đạt 3,2 tỷ USD, tăng 43,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Cà phê đạt 2,9 tỷ USD, giảm 3,6% (lượng giảm 22,4%); hạt tiêu đạt 1,1 tỷ USD, giảm 21,4% (lượng tăng 20,5%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 896 triệu USD, giảm 1,2% (lượng tăng 3,9%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 11 tháng, Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu với 38,1 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2016; tiếp đến là EU đạt 35 tỷ USD, tăng 13,9%; Trung Quốc đạt 30,3 tỷ USD, tăng 54,2%; thị trường ASEAN đạt 19,8 tỷ USD, tăng 25,8%; Nhật Bản đạt 15,2 tỷ USD, tăng 14,9%; Hàn Quốc đạt 13,6 tỷ USD, tăng 30,4%.
Tổng cục Thống kê
Nguồn tin: Vinanet