Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin dự báo thị trường TQ ngày 07/10/2021

Thị trường thép Trung Quốc đã biến động và tăng trưởng mạnh từ cuối năm ngoái, sau khi Chính phủ Trung Quốc liên tục tung ra các gói kích thích lớn hậu covid-19 để hỗ trợ nền kinh tế Trung Quốc, dẫn đến giá thép tăng lên mức chưa từng có và vẫn đang duy trì mạnh mẽ đến thời điểm hiện tại.

Giá cả giao ngay tại thị trường trong nước đã tăng khoảng 70% trong khoảng thời gian tháng 9/2020- tháng 5/2021.

 

Cụ thể, mặt hàng thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng từ 3,700 NDT/tấn (570 USD/tấn) tháng 9/2020 lên mức 6,200 NDT/tấn (940 USD/tấn) vào tháng 5/2021 trước khi giảm xuống còn 5,820 NDT/tấn vào tháng 10/2021.

 

HRC Q235B tại Thượng Hải tăng từ 4,000 NDT/tấn (620 USD) vào tháng 9/2020 lên 6,700 NDT (1,000 USD) vào tháng 5/2021, và giảm xuống còn 5,750 NDT/tấn tính tới thời điểm hiện tại.

 

Việc thắt chặt các biện pháp ô nhiễm gần đây và cuộc khủng hoảng điện vào tháng 9/2021 đã có tác động khác nhau đến giá thép cây và cuộn cán nóng, vì giá thép cây, được hỗ trợ bởi động lực hoàn thành xây dựng trước mùa đông, cắt giảm sản xuất tăng cường nên đã vượt mặt thép cuộn. Trong khi đó, HRC ít được hỗ trợ từ cắt giảm sản xuất hơn, và thiếu điện lại dẫn tới nhiều ngành công nghiệp phải giảm sản xuất, hạn chế tiêu thụ điện năng, dẫn tới tiêu thụ HRC giảm.

 

Thị trường nội địa tăng trưởng mạnh cũng đã hỗ trợ giá xuất khẩu tăng mạnh, đẩy giá Trung Quốc lên cao hơn so với các đối thủ khác trên thị trường Châu Á, mất đi vị thế cạnh tranh vốn có trước nay. Chào bán HRC Trung Quốc đã tăng lên trên 1,100 USD/tấn fob vào thời điểm tháng 5 khi giá quặng sắt cũng đạt ngưỡng kỷ lục trên 230 USD/tấn.

 

Trong khi sự bùng phát dịch covid mạnh trở lại ở các thị trường Châu Á kéo theo nhu cầu tiêu thụ đóng băng, buộc các đối thủ như Nga, Ấn Độ phải giảm mạnh giá về dưới 900 USD/tấn cfr Việt Nam để kích thích đơn hàng thì Trung Quốc vẫn giữ giá bán trên mức 900 USD/tấn cfr, khiến nguyên liệu Trung Quốc không còn là lựa chọn hàng đầu.

 

Việc giá thép Trung Quốc xuất khẩu vẫn ở mức cao hơn so với các đối thủ, một phần do lượng phân bổ xuất khẩu giảm vì cắt giảm sản xuất trong nước, cộng với việc hủy bỏ các khoản hoàn thuế trước đó khiến giá cả tăng cao.

 

Mặc dù quặng sắt đã giảm xuống mức 110-120 USD/tấn bằng cuối năm ngoái, song giá than đá hiện lại tăng vọt lên vọt mức kỷ lục trên 600 USD/tấn cfr Trung Quốc do các vấn đề về thiếu cung, nhu cầu mạnh. 

 

Trung Quốc áp đặt lệnh cấm nhập khẩu không chính thức đối với than từ Australia vào tháng 10/2020, làm đảo lộn động lực thương mại than luyện cốc lâu đời trên biển khi các nhà máy thép Trung Quốc đổ xô sang các nguồn phi truyền thống ở Mỹ, Canada, Nga đẩy giá của họ lên. Trong khi giá than luyện cốc hàng đầu của Mỹ gần 600 USD cfr Trung Quốc, thì than của Úc đã tăng gần mốc 400 USD/tấn fob.

 

Nhìn chung, triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:

 

Yếu tố hỗ trợ:

 

_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.

_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.

_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.

_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.

_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.

_Nhu cầu thép Trung Quốc mạnh trong mùa cao điểm tháng 10.

 

Yếu tố cản trở:

 

Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.

Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.

Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ bằng việc giải phóng hàng dự trữ.

_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.

_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khầu.

 

Việc cắt giảm sản xuất sẽ tiếp tục tăng cường ở những tháng cuối năm, kết hợp nhu cầu xây dựng tăng tiếp tục hỗ trợ giá thép cây duy trì đà tăng trong tháng 10, tiến gần mức kỷ lục trên 6,000 NDT/tấn hồi tháng 5. Thép dẹt cũng được hỗ trợ tăng trưởng nhưng sẽ thấp hơn, chạm mức 5,850-,5900 NDT/tấn.

 

Trong khi đó, giá xuất khẩu sẽ chịu áp lực cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, giảm nhẹ 20-30 USD/tấn. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến.

 

Trong 2 tháng cuối năm, yếu tố trợ giá chính vẫn là giảm sản xuất, giúp cung giảm trong khi nhu cầu từ các lĩnh vực sản xuất, xây dựng chậm. Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE dự kiến tăng nhẹ lên khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam.