Giá cả tiếp tục giảm tại thị trường nội địa Trung Quốc, chủ yếu xu hướng giá chưa rõ ràng liên quan tới các chính sách thuế khiến người mua im ắng.
Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm ở mức 5,240 Nhân dân tệ/tấn (820 USD/tấn) trọng lượng thực tế xuất xưởng vào ngày 8/6, bao gồm thuế giá trị gia tăng 13%, giảm 85 NDT/tấn so với ngày trước.
Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5 mm giao ngay được đánh giá là 5,465 NDT/tấn (854 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế giá trị gia tăng, giảm 15 NDT/tấn so với ngày trước.
Trên thị trường xuất khẩu, một số nhà máy Trung Quốc đưa ra giá từ 940-965 USD/tấn FOB cho lô hàng từ tháng 7 đến tháng 8, trong khi một số nhà máy khác không đưa ra chào bán mới mà muốn thương lượng trên cơ sở một đối một.
Tại Việt Nam, mức chào mua SS400 từ các nhà máy như Anfeng vào khoảng 920-925 USD/tấn CFR, nhưng người mua trong nước không quan tâm và vẫn chờ đợi bên lề trong bối cảnh triển vọng giảm giá và chính sách thuế xuất khẩu không rõ ràng ở Trung Quốc.
Đối với HRC SAE, vẫn có một số chào hàng giao tháng 6 dao động trong khoảng 960-980 USD/tấn CFR và giá của chúng thấp hơn so với các đơn đặt hàng mới từ các nhà máy. Tuy nhiên, người mua khá im lặng trong bối cảnh tiếp cận chào bán nhà sản xuất thép Formosa Hà Tĩnh, dự kiến gần đưa ra chào bán cho lô hàng tháng 8. Nhưng sự bùng phát coronavirus đang diễn ra được cho là có tác động hạn chế đến các nhà nhập khẩu HRC.
Tuy nhiên, sự giảm giá ở phân khúc thép cuộn Trung Quốc và Việt Nam không làm giảm giá chào bán từ các quốc gia còn lại trong khu vực.
Giá chào hàng nội địa Ấn Độ cao hơn 70,000 Rs/tấn (1,269 USD/tấn) giao đến Mumbai được công bố vào tuần trước đã được thị trường phần nào chấp nhận, và sự hiện diện của các điểm bán hàng thay thế như Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông có nghĩa là các nhà sản xuất Ấn Độ sẽ vẫn giữ chào bán của họ cho Việt Nam thấp nhất là 1,020 USD/tấn CFR.
Nippon Steel tăng chào bán thêm 50 USD/tấn lên1,100 – 1,200 USD/tấn CFR Việt Nam/Malaysia /Indonesia giao tháng 8.
Giá cả vẫn đang biến động tăng giảm liên tục với các yếu tố hỗ trợ:
_Nhu cầu từ các khu vực thiếu cung vẫn mạnh mẽ như Châu Âu, Mỹ.
_Giá thế giới vẫn trên đà tăng trưởng.
_Chi phí nguyên liệu thô vẫn cao, bên cạnh chi phí hậu cần tăng.
_Trung Quốc khả năng tiếp tục tăng thuế xuất khẩu cho HRC thêm 15-25%.
Tuy nhiên, do đang vào mùa thấp điểm và các chính sách thuế chưa rõ ràng cộng với nhu cầu nội địa mạnh trước đó đã khiến giá thép nội địa Trung Quốc biến động và sẽ còn thất thường trong 2 tháng tới.
Giá HRC tại Mỹ đã qua mức 1,600 USD/tấn và tại Châu Âu là 1,150 Euro/tấn. Khả năng Chính phủ Trung Quốc tiếp tục tăng thuế xuất khẩu thép là rất cao, nhằm đảm bảo nguồn cung ứng nội địa. Điều này sẽ thúc đẩy giá tăng lên 1,100-1,150 USD/tấn CFR Việt Nam trước khi nhu cầu chậm lại vào tháng 7-tháng 8 kéo giá biến động giảm nhẹ về 950-980 USD/tấn CFR cho cuộn cán lại chào tới Việt Nam về cuối Q2.