Giá cả tiếp tục giảm, do sản lượng thép tại khu vực Giang Tô tăng trở lại sau khi các nhà máy hoàn thành mục tiêu cắt giảm Q3. Trên thị trường xuất khẩu, một số nhà máy và thương nhân nhỏ giảm giá chào theo giá nội địa, còn lại các nhà máy lớn im lặng. Dù giảm thì giá vẫn còn rất cao so với các đối thủ khác, nên người mua ngoài nước không quan tâm.
Giá HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 30 NDT/tấn xuống 5,730 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 1.73% xuống còn 5,619 NDT/tấn.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 110 NDT/tấn xuống còn 5,750 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 4.69% xuống còn5,421 NDT/tấn. Các nhà giao dịch đã cắt giảm giá chào bán xuống còn 5,700 NDT/tấn vào buổi sáng, nhưng các giao dịch tăng lên vào buổi chiều với người mua cho rằng giá đang chạm đáy.
Giá thép cây tại các thành phố lớn trong nước giảm xuống còn 865-890 USD/tấn nên một nhà sản xuất miền đông Trung Quốc đã giảm giá chào bán từ 955 USD/tấn xuống 915 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Tương tự, một nhà máy ở phía đông Trung Quốc giảm 30 USD/tấn xuống còn 915 USD/tấn fob Trung Quốc cho HRC SS400.
Giá của Trung Quốc không thể cạnh tranh trên thị trường Châu Á, với việc Nga đang bán vào Việt Nam ở mức 843 USD/tấn cfr cho HRC SAE1006 sản xuất ống thép. Tại thị trường nội địa, nhà máy Việt Nam Formosa Hà Tĩnh duy trì mức chào hàng tháng là 920-934 USD/tấn cif. Chào bán từ Ấn Độ vào tầm 890-900 USD/tấn cfr Việt Nam.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường cuối ngày được hỗ trợ bởi thông báo kế hoạch cắt giảm thu đông. Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch hạn chế sản xuất từ ngày 15/11 đến ngày 15/3 đối với Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc và các khu vực lân cận. Chính phủ yêu cầu các địa phương hoàn thành chỉ tiêu kiểm soát sản lượng vào cuối năm. Kế hoạch có hai giai đoạn, trong đó giai đoạn thứ hai yêu cầu các nhà máy cắt giảm sản lượng 30% từ ngày 1/1 đến ngày 15/3/2022 so với cùng kỳ năm trước. Những hạn chế này dự kiến sẽ chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất thép cuộn cán nóng.
Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.
_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.
_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.
_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.
_Nhu cầu thép Trung Quốc mạnh trong mùa cao điểm tháng 10-tháng 11.
_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.
Yếu tố cản trở:
_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.
_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.
_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ bằng việc giải phóng hàng dự trữ.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.
_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.
Sản lượng thép dự kiến còn thắt chặt tới cuối năm theo chính sách môi trường và cắt giảm mùa đông sẽ hỗ trợ giá, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu sẽ khiến giá cả biến động. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.
Giá thép cây trong nước dự kiên tiến gần mức kỷ lục trên 6,000 NDT/tấn hồi tháng 5. Thép dẹt cũng được hỗ trợ tăng trưởng nhưng sẽ thấp hơn.
Trong khi đó, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ với giá nội địa tăng mạnh, phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên giảm bình quân 10-20 USD/tấn trong tháng 10. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.
Trong 2 tháng cuối năm, yếu tố trợ giá chính vẫn là giảm sản xuất. Tuy nhiên, các nhà máy đã hoàn thành việc cắt giảm có thể tăng sản xuất trở lại, cộng với nhu cầu các lĩnh vực xây dựng và sản xuất duy trì ổn định, không có sự gia tăng đột biến vì các chỉ số kinh tế giảm. Mọi kích thích kinh tế sẽ có hiệu quả hỗ trợ từ năm sau.
Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ phục hồi nhẹ, dao động trong khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam.