Giá giảm lại do các yếu tố kinh tế vĩ mô suy yếu và tâm lý lo ngại rủi ro giảm giá khi tiến vào mùa nhu cầu thấp điểm trong mùa đông.
Tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong quý 3 năm nay đã thu hẹp xuống còn 4.9% so với năm ngoái, sau khi tăng trưởng lần lượt 18.3% và 7.9% trong quý đầu tiên và thứ hai.
Tăng trưởng GDP từ tháng 1 đến tháng 9 là 9.8%, với mức tăng trưởng trung bình hai năm là 5.2% - thấp hơn 0.1% so với mức tăng trưởng trung bình hai năm trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 6, dữ liệu sơ bộ từ Cục Thống kê Quốc gia (NBS) cho thấy.
Lĩnh vực công nghiệp và bất động sản của Trung Quốc tiếp tục giảm tốc trong tháng 9, không như kỳ vọng của thị trường. Đầu tư vào bất động sản trong tháng 9 của Trung Quốc đã giảm 3.5% so với năm ngoái, mức giảm đầu tiên kể từ khi đóng cửa nghiêm ngặt do đại dịch covid đầu năm 2020.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 giảm xuống 73.75 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2017, do các nhà máy cắt giảm sản lượng dựa vào nguồn cung điện thắt chặt.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 50 NDT/tấn xuống còn 5,720 NDT/tấn do tâm lý yếu hơn. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 1.2% xuống còn 5,422 NDT/tấn.Giá HRC Q235B tại Thượng Hải đã biến động trong ngày, giảm xuống 5,770-5,780 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, một nhà máy ở phía đông Trung Quốc đã giảm giá chào bán 10 USD/tấn xuống còn 905 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400 do nhu cầu yếu và giá nội địa Trung Quốc giảm. Một nhà máy thứ hai ở miền bắc Trung Quốc chào giá cao hơn nhiều ở mức 918-920 USD/tấn fob. Các nhà máy lớn khác của Trung Quốc vẫn im lặng, với lý do phân bổ xuất khẩu hạn chế và chênh lệch giá mua lớn.
Người mua Hàn Quốc có thể chấp nhận đặt hàng với giá 905 USD/tấn fob Trung Quốc, nhưng hầu hết các nhà máy Trung Quốc miễn cưỡng bán ở mức đó hoặc không phân bổ thêm cho các lô hàng trong tháng 12.
Những người mua lớn của Hàn Quốc vẫn thận trọng trong việc đặt hàng vì họ có đủ hàng tồn kho cho hoạt động bình thường trong khoảng 2-3 tuần. Những người mua đường biển từ các quốc gia khác cũng im lặng trước các chào giá.
Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.
_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.
_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.
_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.
_Nhu cầu thép Trung Quốc mạnh trong mùa cao điểm tháng 10-tháng 11.
_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.
Yếu tố cản trở:
_Các số liệu kinh tế yếu.
_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.
_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.
_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ bằng việc giải phóng hàng dự trữ.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.
_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.
_Nhu cầu gặp áp lực vào mùa đông.
Sản lượng thép dự kiến còn thắt chặt tới cuối năm theo chính sách môi trường, thiếu điện và cắt giảm mùa đông sẽ hỗ trợ giá, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường cũng chịu áp lực từ các chỉ số kinh tế giảm và nhu cầu thấp theo mùa trong mùa đông. Việc thiếu điện ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, làm giảm nhu cầu thép. Giá thép nội địa tăng giảm đan xen, với ngưỡng trần là 6,000 NDT/tấn và giá sàn trên 5,500 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ do phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên giảm bình quân 10-20 USD/tấn trong tháng 10. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.
Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ biến động tăng giảm về cuối năm, song nhờ phân bổ xuất khẩu giảm nên theo xu hướng nhích nhẹ cuối năm, dao động trong khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam.