Giá thép giảm lại sau khi cơ quan hoạch định kinh tế chính của Trung Quốc có động thái điều chỉnh giá than đang tăng vọt, khiến giá nguyên liệu thô giảm.
NDRC sẽ theo dõi thị trường than và hành động để đưa giá than xuống mức hợp lý và đảm bảo nguồn cung ổn định trong mùa đông. Cơ quan đã điều tra Sở giao dịch hàng hóa Trịnh Châu vào chiều hôm trước. Mục tiêu là than nhiệt, nhưng giá than luyện kim và than cốc giao sau đã giảm xuống giới hạn hàng ngày trong ngày hôm qua, báo hiệu giá thép sàn thấp hơn. Tình trạng thiếu điện trong mùa đông có thể kéo dài các hạn chế đối với các nhà sản xuất thép và những người mua công nghiệp hạ nguồn của họ.
Một số nhà máy ở tỉnh Giang Tô phía đông Trung Quốc đã nhận yêu cầu cắt giảm sản lượng từ ngày 19 để đối phó với tình trạng thiếu điện kéo dài trong khu vực, chỉ một tuần sau khi hoạt động trở lại từ kỳ nghỉ lễ quốc khánh.
Một nhà máy lớn ở tỉnh Quảng Đông sẽ đình chỉ hoạt động của một lò cao trong 140 ngày, điều này sẽ làm giảm sản lượng thép cây của họ vào tháng 12. Một nhà máy ở tỉnh Hà Bắc, miền bắc Trung Quốc đã bắt đầu bảo trì lò cao trong 5 tháng kể từ hôm nay.
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm 90 NDT/tấn xuống còn 5,710 NDT/tấn. Giá HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 2.49% xuống 5,550 NDT/tấn.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 40 NDT/tấn xuống 5,700 NDT/tấn. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 2.87% xuống 5,304 NDT/tấn. Tuy nhiên, nguồn cung thép cây nhìn chung vẫn khan hiếm tại các thị trường lớn phía đông Trung Quốc với một số nhà máy tăng giá xuất xưởng 20-30 NDT/tấn trong ngày.
Trên thị trường xuất khẩu, phần lớn vẫn giữ giá ổn định. Các nhà máy hàng đầu giữ nguyên xuất khẩu thép cây ở mức 890-905 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 12, trong khi mức khả thi giảm xuống khoảng 850-890 USD/tấn fob.
Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã chào giá 920 USD/tấn fob Trung Quốc cho SS400 và sẵn sàng nhận đơn đặt hàng với giá 910 USD/tấn fob Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu như không nhận được hồ sơ dự thầu hoặc yêu cầu nào từ các nhà máy và công ty thương mại lớn của Trung Quốc.
Người mua đường biển ở Hàn Quốc và Việt Nam không vội đặt hàng vì họ có đủ hàng tồn kho để hoạt động bình thường. Họ có thể chấp nhận mức giá cạnh tranh để vận chuyển hàng hóa nhanh chóng nếu họ có nhu cầu, nếu không, họ muốn đợi lâu hơn sau khi thấy giá giảm.
Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.
_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.
_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.
_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.
_Nhu cầu thép Trung Quốc mạnh trong mùa cao điểm tháng 10-tháng 11.
_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.
Yếu tố cản trở:
_Các số liệu kinh tế yếu.
_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.
_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.
_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ bằng việc giải phóng hàng dự trữ.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.
_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.
_Nhu cầu gặp áp lực vào mùa đông.
Sản lượng thép dự kiến còn thắt chặt tới cuối năm theo chính sách môi trường, thiếu điện và cắt giảm mùa đông sẽ hỗ trợ giá, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường cũng chịu áp lực từ các chỉ số kinh tế giảm và nhu cầu thấp theo mùa trong mùa đông. Việc thiếu điện ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, làm giảm nhu cầu thép. Giá thép nội địa tăng giảm đan xen, với ngưỡng trần là 6,000 NDT/tấn và giá sàn trên 5,500 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ do phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên sẽ biến động tăng giảm đan xen 10-20 USD/tấn trong tháng 10. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.
Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ biến động tăng giảm về cuối năm, song nhờ phân bổ xuất khẩu giảm nên theo xu hướng nhích nhẹ, dao động trong khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam.