Thị trường giao ngay tăng theo kỳ hạn, nhờ tâm lý thị trường được hỗ trợ bởi các kế hoạch cắt giảm sản lượng ở thành phố Hàm Đan trong quý 2, cùng với việc kiểm soát sản lượng nhiều hơn ở Trung Quốc trong thời gian còn lại của năm.
Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5 mm giao ngay được đánh giá ở mức 5,600 NDT/tấn (864 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế giá trị gia tăng, tăng 50 NDT/tấn so với ngày trước. Trên Sàn giao dịch Kỳ hạn Thượng Hải, hợp đồng giao dịch tháng 10 chốt mức 5,522 NDT/tấn, tăng 68 NDT/tấn, tương đương 1.2% so với cùng kỳ. Hợp đồng đã được ký kết trong ba ngày giao dịch với tổng mức tăng là 182 NDT/tấn.
Hợp đồng thép cây giao tháng 10/2021 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải chốt ở mức 5,208 NDT/tấn vào ngày 22/4, tăng 20 NDT/tấn so với ngày trước, với hợp đồng đạt mức cao lịch sử trong ngày ở mức 5,238 NDT/tấn. Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm được đánh giá ở mức 5,245 NDT/tấn (808 USD/tấn) trọng lượng thực tế xuất xưởng vào ngày 22/4, bao gồm 13% thuế giá trị gia tăng, tăng 15 NDT/tấn so với ngày trước.
Các nhà máy Trung Quốc kiên quyết chào giá ở mức 920-930 USD/tấn FOB cho lô hàng HRC thương phẩm giao tháng 6, trong bối cảnh thị trường nội địa tăng liên tục. Một thương nhân Trung Quốc cho biết: “Với sự hỗ trợ từ thị trường nội địa, không có lý do gì để các nhà máy giảm giá để đẩy nhanh doanh số bán hàng ngay bây giờ”.
“Giá của Trung Quốc vẫn tương đối thấp so với các nước khác,” một nguồn tin từ nhà máy Trung Quốc cho biết.
Tại thị trường cán lại Việt Nam, người mua vẫn thận trọng trong việc đặt trước do lo ngại một số đợt điều chỉnh giá và việc hoàn thuế xuất khẩu không chắc chắn ở Trung Quốc. Mức chào bán từ các thương nhân cho thép Trung Quốc vẫn ở mức 930 USD/tấn CFR cho lô hàng tháng 6/tháng 7, trong khi mức chào bán từ các nhà máy Trung Quốc và Ấn Độ là 940-950 USD/tấn CFR.
Người mua Việt Nam bị tụt lại phía sau, chỉ có các thương nhân đặt hàng bán kiếm lời, một thương nhân Việt Nam cho biết thêm “Tôi không nghĩ các nhà máy Trung Quốc sẽ giảm giá”.
Một thương nhân thứ hai cho biết thị trường khá trầm lắng vì một số người mua tỏ ra thận trọng.
Giá vẫn đang trên đà tăng dựa trên các yếu tố sau:
_ Giả định mức hoàn thuế xuất khẩu cho HRC là 0.
_Nguồn cung HRC thế giới thiếu hụt trầm trọng.
_Gía nguyên liệu thô cao với quặng sắt trên 170 USD/ tấn, gấp đôi cùng kỳ năm ngoái.
_Chi phí vận chuyển cũng tăng gần 50% từ chi phí xăng dầu, thiếu container.
_Các chính sách kích thích kinh tế trong giai đoạn 5 năm lần thứ 14 (2021-2025).
_Cắt giảm sản xuất trọng tâm trong năm nay để đạt mục tiêu trung hòa cacbon.
Giá thép Trung Quốc tăng khó kiểm soát khi chính sách hoàn thuế chưa được công bố rõ ràng. Giá giữ ở mức cao trong bối cảnh thép toàn cầu thiếu hụt, giá tăng mạnh tại các thị trường Châu Âu, Mỹ trong khi giá nội địa Trung Quốc mạnh nên không áp lực hàng nhập khẩu. Nguồn cung thiếu hụt tại các khu vực Châu Âu, Mỹ dự kiến mở rộng qua hè. Trung Quốc đang thực hiện cắt giảm sản xuất trong nước nên sẽ tăng thuế xuất khẩu để hạn chế xuất khẩu ra các thị trường ngoài nước, tập trung bán vào thị trường nội địa. Điều này sẽ còn giữ giá ở mức cao hết Q2.
Tuy nhiên, mức giá cao hiện tại sẽ rủi ro điều chỉnh giảm nhẹ vào hè vì khả năng Trung Quốc chỉ cắt giảm hoàn thuế xuất khẩu HRC xuống 9% và nhu cầu vào mùa mưa ở phía nam Trung Quốc cũng như Việt Nam khiến tiêu thụ chậm lại. Lợi nhuận cao đang thúc đẩy các nhà máy thép Trung Quốc gia tăng công suất dù bị cấm cản và sản lượng sẽ tăng trong những tháng tới. Ngưỡng 1,000 USD/tấn CFR Việt Nam sẽ là ngưỡng kháng cự.
Như vậy, giá sẽ tiếp tục tăng song biến động trong tháng 4 tiến gần 1,000 USD/tấn CFR, duy trì ở mức cao trong tháng 5 tới và giảm dần lại về cuối Q2-tháng 7, dự kiến về mức 830-850 USD/tấn CFR Việt Nam.