Giá nội địa Trung Quốc mặc dù đi ngang trong ngày đầu tuần nhưng tâm lý suy yếu, do triển vọng nhu cầu thép xây dựng chậm trước chương trình kiểm tra thuế tài sản bất động sản trong 5 năm. Tuy nhiên, thuế có thể ảnh hưởng tiêu cực đến giá bán nhà trong ngắn hạn nhưng không lâu dài.
Nguồn cung thép vẫn bị hạn chế bởi việc cắt giảm sản lượng, điều này có thể hạn chế dư địa giảm đối với giá thép cây do các cắt giảm đối với các nhà máy thép cây lớn không có dấu hiệu giảm bớt và có thể vượt xa sự sụt giảm nhu cầu.
Giá thép đường biển giảm do các nhà máy Trung Quốc cắt giảm chào giá dựa vào triển vọng nội địa yếu hơn cũng như tăng cạnh tranh với các nước khác.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải ổn định mức 5,300 NDT/tấn với sự tập trung chuyển sang nhu cầu khi phân tích thí điểm chương trình thuế bất động sản. Giá thép cây giao sau tháng 1 giảm 1.67% xuống còn 4,825 NDT/tấn. Giá thép cây nội địa Trung Quốc ở mức 830-850 thuế bất động sản tại các thành phố lớn.
Tương tự, giá HRC Q235 tại Thượng Hải ổn định mức 5,550 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 1.93% xuống còn 5,180 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, một nhà máy ở phía đông Trung Quốc đã cắt giảm giá chào 10 USD/tấn xuống còn 895 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC SS400 trong bối cảnh tâm lý trong nước nhẹ nhàng hơn. Một nhà máy khác ở miền Bắc Trung Quốc chào giá 890 USD/tấn fob Trung Quốc cho cùng loại. Các nhà máy lớn khác của Trung Quốc chưa công bố giá chào hàng tuần mới, nhưng họ dự kiến sẽ cắt giảm mức khả thi xuống 890-970 USD/tấn fob phù hợp với giá nội địa Trung Quốc thấp hơn. Các giao dịch khó kết thúc với mức người mua chấp nhận được thấp hơn nhiều, tương đương khoảng 830-840 USD/tấn fob Trung Quốc.
Người mua Hàn Quốc im lặng sau khi họ mua 40,000-50,000 tấn HRC và phôi thép với giá khoảng 850 USD/tấn cfr từ một nhà máy có trụ sở tại Kazakhstan.
Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.
_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.
_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.
_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.
_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.
Yếu tố cản trở:
_Các số liệu kinh tế yếu.
_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.
_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.
_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.
_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.
_Nhu cầu gặp áp lực vào mùa đông.
Như vậy, yếu tố hỗ trợ chính cho giá tới cuối năm là giảm sản xuất, theo các chính sách môi trường, thiếu điện và cắt giảm mùa đông, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ sẽ không mạnh về cuối năm do yếu tố mùa vụ, các chính sách quản lý thị trường bất động sản sau vụ Evergande, các chỉ số kinh tế giảm. Việc thiếu điện ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, làm giảm nhu cầu thép.
Chính phủ sẽ siết chặt các hoạt động đầu cơ, gây ra hiện tượng giá quá nóng trên thị trường than cốc, than nhiệt như các động thái mới đây, điều này làm giảm tâm lý đầu tư và kéo giá cả giảm.
Do đó, dự kiến giá thép nội địa tăng giảm đan xen, với ngưỡng trần là 6,000 NDT/tấn và giá sàn 5,000 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ do phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên sẽ biến động tăng giảm đan xen 10-20 USD/tấn trong tháng 10.
Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.
Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ biến động tăng giảm về cuối năm, song nhờ phân bổ xuất khẩu giảm nên vẫn duy trì mức cao, dao động trong khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam vào tháng 12.