Sự suy yếu tại thị trường trong nước đã ảnh hưởng đến giá xuất khẩu Trung Quốc, với vài nhà máy cắt giảm giá chào xuống 10-20 USD/tấn để kích cầu, thu hẹp dần chênh lệch chào bán- chào mua trên thị trường đường biển.
Chính quyền tỉnh Sơn Tây cho biết sẽ tiến hành kiểm tra sản lượng thép thô của các nhà máy từ ngày 26-29/10. Bốn nhà máy thép ở thành phố Linfen, tỉnh Sơn Tây đã bắt đầu bảo trì lò cao từ ngày 21/10 để đáp ứng chính sách hạn chế của thành phố.
Tỷ suất lợi nhuận của các nhà máy thép cuộn đã bị ép xuống khoảng 100-400 NDT/tấn (16-63 USD/tấn) tùy thuộc vào khu vực và các nhà máy.
Tại thị trường giao ngay, thép cây HRB400 giữ ổn định ở mức 5,300 NDT/tấn và thép cây giao sau tháng 1 tăng 0.57% lên 4,917 NDT/tấn. Giá HRC Q235 tại Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn xuống 5,540 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 1 giảm 1.1% xuống 5,236 NDT/tấn. Giao dịch thực tế chậm hơn so với tuần trước, với lượng mua hạn chế từ người dùng cuối.
Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy Trung Quốc có thể xem xét bán thấp hơn với mức thị trường nội địa 825-840 USD/tấn. Nhưng mặt bằng giá chung vẫn không hấp dẫn đối với người mua đường biển khi các nhà máy Việt Nam đang chào giá 735 USD/tấn fob trọng lượng thực tế.
Đối với mặt hàng cuộn dây, một nhà sản xuất phía bắc Trung Quốc đã cắt giảm giá 20 USD/tấn xuống còn 885 USD/tấn fob sau khi thị trường nội địa giảm gần đây.
Đối với HRC, các nhà máy tư nhân nhỏ hơn của Trung Quốc đang cân nhắc bán với giá 880 USD/tấn fob Trung Quốc, nhưng các nhà máy lớn của Trung Quốc vẫn im lặng vì họ không có bất kỳ phân bổ xuất khẩu nào hoặc không thể chấp nhận mức giá dưới 895-960 USD/tấn fob Trung Quốc. Một lượng nhỏ HRC SS400 của Trung Quốc được cho là đã được bán dưới 880 USD/tấn fob Trung Quốc.
Chào bán HRC SAE1006 từ Trung Quốc vẫn vắng bóng trên thị trường Việt Nam do người bán đang cân nhắc, trong khi giá chào mua từ Việt Nam tăng lên 880 USD/tấn cfr.
Triển vọng giá thép những tháng cuối năm sẽ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố sau:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính sách trung hòa carbon tăng cường, làm giảm sản xuất thép.
_Chính sách cắt giảm sản xuất mùa đông, làm giảm nguồn cung thép.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất thép.
_Giá than đá duy trì ở mức cao, hỗ trợ giá thép.
_Nhu cầu phục hồi dần tại các thị trường Châu Á sau dịch.
_ Chi phí năng lượng tăng với chính sách cải tiến quy định giá điện mới của Chính phủ.
Yếu tố cản trở:
_Các số liệu kinh tế yếu.
_ Cắt giảm sản xuất thép về lâu dài kéo giá nguyên liệu thô giảm, tác động lại giá thép.
_ Bong bóng bất động sản từ vụ Evergrande, làm giảm đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cuối năm.
_ Cú đấm hạ nhiệt giá hàng hóa của Chính phủ.
_Thiếu điện làm giảm sản xuất công nghiệp, gây áp lực lên tiêu thụ thép dẹt.
_Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ trên thị trường xuất khẩu.
_Nhu cầu gặp áp lực vào mùa đông.
Như vậy, yếu tố hỗ trợ chính cho giá tới cuối năm là giảm sản xuất, theo các chính sách môi trường, thiếu điện và cắt giảm mùa đông, dù một số khu vực tăng công suất sau khi hoàn thành mục tiêu. Với quy định về giá điện mới của Chính phủ thời gian tới, Bắc Kinh yêu cầu tất cả các doanh nghiệp trong nước và người sử dụng công nghiệp phải mua điện từ các sàn giao dịch với giá cao hơn điện từ Chính phủ, làm gia tăng chi phí sản xuất thép.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ sẽ không mạnh về cuối năm do yếu tố mùa vụ, các chính sách quản lý thị trường bất động sản sau vụ Evergande, các chỉ số kinh tế giảm. Việc thiếu điện ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất, làm giảm nhu cầu thép.
Chính phủ sẽ siết chặt các hoạt động đầu cơ, gây ra hiện tượng giá quá nóng trên thị trường than cốc, than nhiệt như các động thái mới đây, điều này làm giảm tâm lý đầu tư và kéo giá cả giảm.
Do đó, dự kiến giá thép nội địa tăng giảm đan xen, với ngưỡng trần là 6,000 NDT/tấn và giá sàn 5,000 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, giá xuất khẩu vẫn sẽ duy trì ở mức cao hơn các đối thủ do phân bổ xuất khẩu hạn chế. Tuy nhiên, giá quá cao khó thu hút người mua nên sẽ còn giảm trong tháng tới để kích cầu, nhưng biến động đan xen. Mặc dù Việt Nam đã mở cửa trở lại từ ngày 01/10 nhưng vẫn sẽ có những biện pháp hạn chế để ngăn ngừa covid-19, nên nhu cầu không có sự đột biến, cộng với cạnh tranh giá thấp hơn từ các đối thủ Ấn Độ, Nga.
Do đó, giá xuất khẩu HRC SAE Trung Quốc dự kiến sẽ biến động tăng giảm về cuối năm, dao động trong khoảng 950-980 USD/tấn cfr Việt Nam vào tháng 12.