Giá thép cuộn và thép cây của Trung Quốc tăng tại Thượng Hải hôm thứ sáu, báo hiệu giá cả có thể chạm đáy sau nhiều ngày giảm mạnh. Thị trường đường biển vẫn trầm lắng với người mua giữ thái độ thận trọng.
Giá thép cuộn tại Thượng Hải đã giảm 240 NDT/tấn hoặc 4.8% so với ngày 4/5. Các biện pháp kích thích do chính quyền trung ương công bố có thể sẽ được thực hiện với tốc độ nhanh hơn trong những tháng tới để ổn định nền kinh tế, và các thành phố như Thâm Quyến đã công bố kế hoạch trợ cấp cho người tiêu dùng xe năng lượng mới và thiết bị gia dụng.
Các ước tính cho thấy Trung Quốc đã phát hành 1.82 triệu nhân dân tệ trái phiếu kho bạc cho đến nay, với việc phát hành tăng tốc vào tháng 5. Giao dịch thép cây tại các thành phố lớn trong nước đã tăng 30,000 tấn lên 170,000 tấn so với ngày thứ năm.
Tại thị trường trong nước, giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 60 NDT/tấn so với thứ năm lên 4,760 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 10 tăng 1.78% lên 4,698 NDT/tấn.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn lên 4,730 NDT/tấn với các kỳ hạn cao hơn. Giá thép cây giao sau tháng 10 tăng 2.26% lên 4,576 NDT/tấn. Giao dịch trên thị trường giao ngay được cải thiện với một số người mua tin rằng giá đã chạm đáy. Một số nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc đã tăng giá xuất xưởng thép cây lên 10-40 NDT/tấn do giá quặng sắt cũng tăng trở lại.
Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy lớn của Trung Quốc giữ giá xuất khẩu thép cây ở mức 755-775 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết. Các giao dịch vẫn khó kết thúc với giá mục tiêu của người mua Đông Nam Á dưới 720 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết.
Trên thị trường HRC, hầu hết những người bán giữ giá chào bán không thay đổi do nhu cầu đường biển vẫn yếu.
Vài nhà giao dịch đã nâng giá chào bán lên khoảng 5-10 USD/tấn lên mức tương đương 710-720 USD/tấn cho HRC SS400, nhưng không thu hút. Người mua đường biển giữ thái độ chờ đợi đến khi xu hướng thị trường trở nên rõ ràng hơn.
Giá chào bán hầu như không thay đổi ở mức 760-780 USD/tấn cfr Việt Nam cho cuộn SAE1006 của Trung Quốc, với giá thầu ở mức 740-750 USD/tấn cfr Việt Nam. Chênh lệch lớn giữa giá chào bán và chào mua khiến giao dịch bế tắc.
Thị trường ngắn hạn có vẻ tích cực với các hạn chế nới lỏng, nhưng dài hạn vẫn chịu nhiều yếu tố áp lực:
Yếu tố hỗ trợ:
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế, hỗ trợ ngành thép.
_ Nguồn cung giảm với yêu cầu giữ sản lượng 2022 thấp hơn 2021.
_Chính sách covid-19 nới lỏng vào tháng 6, kích cầu trở lại.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh vẫn còn bất ổn
_Thị trường bước vào mùa nắng nóng, mưa nhiều từ tháng 6.
_Khả năng Chính phủ giảm thuế thép xuất khẩu.
_Thị trường bất động sản u ám trong năm nay.
Dự kiến xu hướng giá cả có triển vọng nhích nhẹ trong tháng 6 và lại quay đầu giảm vào tháng 7, với thép cây và HRC giao ngay trong nước giảm về khoảng 4,500-4,600 NDT/tấn.
Giá tháng 6 HRC SAE1006 2.0mm Trung Quốc về Việt Nam nhích nhẹ lên khoảng 800 USD/tấn cfr Việt Nam trước khi giảm lại về khoảng 770 USD/tấn cfr vào tháng 7.