Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 01/08/2016

Rất ít nhà máy tại Mỹ hủy phế tháng Bảy, triển vọng tháng Tám trái chiều

Thông báo hủy của các nhà máy Mỹ đến các nhà cung cấp phế vào thứ Sáu rất ít ỏi và các nguồn tin thị trường tin rằng đó là biểu hiện của nhu cầu tiêu thụ phế liệu giảm trong tháng Tám hoặc ý định muốn cắt giảm hàng tồn kho, chứ không phải là sự suy yếu nói chung trên thị trường.

Chỉ có ba nhà máy được nghe nói đã ban hành thông báo đến các đại lý phế để hủy bỏ bất kỳ lô hàng phế tháng Bảy nào chưa giao vào cuối giờ làm việc ngày thứ Sáu, ngày làm việc cuối cùng của tháng Bảy. Vào ngày làm việc cuối cùng của tháng Sáu, gần như mọi nhà máy đã hủy phế chưa được giao vì dự đoán giá giảm trong tuần mua tháng Bảy. Giá phế cũ đã giảm khoảng 20usd/tấn dài trong tuần mua tháng Bảy.

Thị trường nhất trí cho là phế thượng hạng sẽ giảm khoảng 10-20usd/tấn dài trong tháng Tám nhưng ý kiến ​​về giá phế cũ vẫn trái chiều.

Một nhà cung cấp ở miền đông nam nước Mỹ cho biết” “Tôi dự đoán phế sạch chủ yếu đi ngang, phế vụn giảm nhẹ 5-10usd và phế thượng hạng giảm 10-20usd.”

Ông lưu ý rằng khoảng cách khoảng 50 usd/tấn dài giữa phế thượng hạng và phế vụn là “quá nhiều” và rằng các nhà máy có khả năng tăng mức tiêu thụ phế vụn trong tháng Tám nếu phế thượng hạng không giảm giá và giá trị gần gần hơn so với phế vụn.

Một số nhà máy đã đưa ra tín hiệu có thể cố gắng giảm giá phế cũ. Một số đại lý đã kiên quyết cho rằng bất kỳ nỗ lực để giảm giá phế cũ sẽ gây ra những bất lợi đáng kể đến nguồn cung

Một nhà cung cấp Đông Bắc cho biết: “Trừ khi các nhà máy chỉ cần 70-75% nhu cầu tiêu thụ của tháng Bảy, giá sẽ cần phải đi ngang.”

Thị trường xuất khẩu Bờ Đông Mỹ đã ổn định trong tuần 25/07, cung cấp một số hỗ trợ cho kỳ vọng đi ngang của phế cũ trong nước. Chiều thứ Năm tuần trước một nhà xuất khẩu lô rời của Mỹ đã bán đến một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 229usd/tấn CFR HMS 80:20, mức giá tương tự của 4 lô hàng Bắc Mỹ khác trên bốn hàng khác ở Bắc Mỹ đã được chốt trước đó.

“Có vẻ như giá đi ngang cho phế vụn ở Midwest. Tôi cho rằng các giao dịch xuất khẩu Bờ Đông này vẫn sẽ duy trì ổn định," một nhà cung cấp Bắc Mỹ cho biết.

Một người mua nhà máy đã đồng ý và nói rằng “dường như sự ổn định gần đây trong thị trường toàn cầu” sẽ tiếp tục duy trì phế sạch và phế vụn đi ngang trong klhi phế thượng hạng điều chỉnh giảm.

Platts duy trì định giá phế vụn hàng ngày là 240-245usd/tấn dài đã giao Midwest.

Thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ nỗ lực phục hồi, nhưng giá suy yếu

Không có hoạt động thương mại đáng chú ý đã được nhìn thấy trong thị trường tấm mỏng trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ vào tuần trước trong bối cảnh biến động tỉ giá liên tục, hậu quả của các cuộc đảo chính quân sự không thành tiếp tục gây ra những rắc rối đến động lực của nền kinh tế, các nguồn tin nói hôm thứ Sáu.

“Giá gần chạm đáy thị trường, do nhu cầu tiêu thụ của người dùng cuối đã giảm dần. Mặc dù các nhà sản xuất thường cố gắng để duy trì giá, mức giảm đáng kể cũng có sẵn, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng,” một giám đốc trung tâm dịch vụ nói. “Do hàng tồn kho thấp, chúng tôi đang tính toán có nên đặt hàng trong tuần tới hay không, vì vậy chúng tôi cũng đang theo dõi chặt chẽ xu hướng giá thế giới. Các mức giá trong nước có thể là một cơ hội mua hàng nếu chúng ta thấy một số nhu cầu phục hồi trong tuần tới,” ông nói thêm.

Chào giá HRC trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ  trong khoảng 410-430usd/tấn trong tuần trước do nhu cầu tiêu thụ chậm, nhưng các giá chào dưới mức này cũng đã có mặt trên thị trường, một số nguồn tin thương mại Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố.

Chào giá CRC từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng xuống mức thấp 500-520usd/tấn xuất xưởng vào tuần trước do nhu cầu chậm.

Thị trường thép cuộn mạ ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng vẫn yên ắng trong tuần trước. Giảm giá khiến cho giá chào ở thị trường trong nước cho HDG dày 0.5mm còn 550-580usd/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng đặt khá lớn tùy thuộc vào các điều khoản thanh toán. Chào giá trong nước của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 650-680usd/tấn xuất xưởng.

Hầu hết những người tham gia thị trường mong đợi một sự hồi phục nhu cầu tiêu thụ và giá cả trong những ngày sắp tới, trong bối cảnh giảm bớt biến động tỷ giá hối đoái và giá phế nhập khẩu mạnh hơn.

Định giá HRC EU

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở 415-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.

Hoạt động nhà máy vẫn trầm lắng và dự kiến sẽ tiếp tục như vậy cho đến cuối tháng Tám, với vài chào giá công khai đến thị trường. Các nguồn tin ở Benelux và Đức xác nhận chào giá mới nhất ổn định ở mức 420euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Đồng euro mạnh lên và cuộc điều tra chống bán phá giá sâu rộng có nghĩa là chào bán nhập khẩu thưa thớt và không thể cạnh tranh. Hai nguồn tin cho hay các chào giá là 415 euro FCA Antwerp.

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng bù đắp chi phí cao hơn

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chốt tuần với xu hướng tăng nhẹ khi các nhà xuất khẩu thúc đẩy giá chào mạnh hơn do chi phí đầu vào cao, các nguồn tin nói hôm thứ Sáu.

Một nhà sản xuất lớn của Thổ Nhĩ Kỳ gần đây nhất đã bán 50.000 tấn thép cây đến UAE tại mức 380-385usd/tấn CIF Jebel Ali trọng lượng lý thuyết, một người mua địa phương cho biết. Giá dựa trên cơ sở trọng lượng thực tế tương đương khoảng 380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. “Bây giờ tôi đang nghe nói chào giá ở 390usd/tấn CFR, nhưng sẽ không có bất kỳ hoạt động nào cho đến giữa tháng Tám, thời điểm các thương nhân sẽ tìm kiếm hàng giao tháng Chín,” ông nói thêm.

 “Do người mua có thể chờ đợi và quan sát, giá tăng 390usd/tấn có vẻ không chấp nhận được,” một người mua khác nhận xét. Đồng thời 380usd/tấn CFR UAE, nghe nói đến trong một đặt hàng trước khi tăng, hiện giờ có vẻ như “thấp so với phế,” một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Trong tháng Bảy, mức chênh lệch trung bình giữa định giá phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ và định giá xuất khẩu thép cây thu hẹp còn 160usd/tấn, từ 167usd/tấn trong tháng Sáu, chủ yếu là do những tín hiệu tích cực hơn trong phế.

Báo giá của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã nhích lên đến các thị trường khác. Một thương nhân cao cấp cho biết mục tiêu cho thị trường Mỹ là từ 410-415usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương với 395-400usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Một nguồntin thương mại ghi nhận giá chao mua đạt 400-405usd/tấn CFR Bờ Đông Mỹ trọng lượng lý thuyết, trong khi đối tác của ông cho biết mức giá khả thi tối thiểu là 390usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ do chi phí đầu vào tăng cao đối với người sản xuất.

Platts định giá thép cây hàng ngày ở 380-390usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ thứ Sáu, tăng 7,50 usd/tấn trong ngày.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 380-390usd/tấn FOB thứ Sáu, với trung điểm là 385usd/tấn lên đến 7,50usd/tấn trong ngày.

Các nguồn tin thị trường bắt đầu cho biết chào giá cao hơn cũng như giá mua mạnh hơn. Một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ lớn được cho biết đã đặt 50.000 tấn đến UAE tại 380-385usd/tấn CIF Jebel Ali trên trọng lượng lý thuyết, tương đương với khoảng 380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Sau giao dịch mới nhất, chào giá tăng nhẹ 390usd/tấn CIF UAE, một thương nhân ở Dubai, cho biết.

Đối với thị trường Mỹ báo giá tăng cao hơn, các nguồn tin nhận xét. Một thương nhân cao cấp cho biết mục tiêu cho thị trường Mỹ là 410-415usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, mà các nhà kinh doanh xác nhận là 395-400usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Giá mua đạt 400-405/tấn CFR Bờ Đông Mỹ trọng lượng lý thuyết, hoặc 385-390usd /tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, trọng lượng thực tế. Đối tác của ôngnói rằng mức khả thi tối thiểu là 390usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế do chi phí đầu vào tăng.

 

Platts nâng định giá lên mức 380-390usd/tấn FOB, trong đó phản ánh cả giá bán hàng gần đây vào UAE cũng như các chỉ số giá tại Mỹ.

HRC nội địa Nga giảm do mức chênh lệch tăng quá cao

Mặc dù một số nhà máy của Nga đã công bố duy trì giá nội địa tháng Bảy đến tháng Tám cho thép cuộn cán nóng và tấm mỏng, những nhà mày khác đã giảm nhẹ giá giảm bớt mức chênh lệch giá tăng cao của giá CPT Moscow so với giá xuất khẩu CIS trên cơ sở FOB Biển Đen.

Trong hai tháng qua, kể từ tuần cuối cùng của tháng Năm, giá trị của giá HRC trong nước đang phát triển hoặc duy trì ổn định, trong khi các sản phẩm tương tự trên cơ sở giá FOB Biển Đen thì  suy yếu đi. Kết quả của sự khác biệt này, giá CPT Moscow tăng trung bình 100usd/tấn từ 23/05 đến cuối tháng Bảy.

Tấm mỏng cán nóng sản xuất tháng Tám hiện nay có giá 35.900-36.600 rúp (541-551usd)/tấn cho vật liệu dày 2mm và 35.300-36.000 rúp (531-541usd)/tấn cho vật liệu dày 4mm, giao Moscow. Nếu không có 18% VAT mức giá này 30.424-31.020 rúp (458-467usd) /tấn và 29.915-30.510 rúp (450-459usd)/tấn tương ứng, đánh dấu mức giảm so với tháng trước là 620 rúp (9usd)/tấn.

Hôm 29/07, Platts giảm định giá tấm mỏng và cuộn cán nóng dày 2-4mm 200 rúp (3usd)/tấn trong tuần, còn 30.200-30.900 rúp (455-465usd)/tấn và 29.600-30.300 rúp (445-455usd)/tấn, tương ứng, CPT Moscow. Mặc dù có sự sụt giảm, giá HRC trong nước Nga duy trì mức chênh lệch tăng 80 usd so với giá xuất khẩu CIS FOB Biển Đen.

 

Đối với sản lượng thép tấm mỏng cán lạnh trong tháng Tám, giá là 34.750 rúp (520usd)/tấn CPT Moscow cho vật liệu dày 1mm. Với VAT, sản phẩm là 41.000 rúp (614usd)/tấn.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 317,5usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Sáu, ổn định trong ngày.

Không có giao động giá hơn nữa trong thị trường. Các nguồn tin tiếp tục cho biết về đơn hàng trước đó của một nhà máy Ukraina ký kết ở mức 326-328usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 313-318usd/tấn FOB Biển Đen. Một người mua Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chào giá cho phôi thanh CIS ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen, tương đương 335usd/tấn CFR Iskenderun.

 

Một nhà sản xuất Belarus được đồn rằng đang mục tiêu mức 315usd/tấn FOB Odessa thanh toán trước toàn bộ. Một thương nhân nói rằng nhà máy này đã nhận được mức giá mua rất thấp là 295usd/tấn FOB những đã không chấp nhận. Một nguồn tin giao dịch cấp cao nói rằng nhà máy này có thể bán tại mức giá nằm giữa giá chào mua và giá chào bán: 295-315usd/tấn FOB, cho thấy mức trung điểm là 305usd/tấn FOB. Giá này sẽ cho thấy mức giảm hơn nữa trong giá trị phôi thanh Biển Đen, tuy nhiên không có thông tin xác nhận về giao dịch này này trên thị trường. 

Giá thép cây Nga giảm do thừa cung và chênh lệch tăng cao

Giá thép cây nội địa Nga đã giảm hơn nữa trong tuần trước, đưa thị trường trở lại thế cân bằng với giá quốc tế.

Trong suốt tháng Năm - tháng Sáu, giá thép cây đường kính 12-14mm ở mức 29,800 rúp (457usd)/tấn CPT Moscow. Mức này đã vượt quá giá FOB Biển Đen của thép cây CIS là 4.800 rúp (60usd)/tấn, theo tỷ giá tại thời điểm đó. Mức chênh lệch tăng  đáng kể trong giá nội địa Nga đã thúc đẩy một gia tăng nhập khẩu từ Ukraina và cũng có thể từ Belarus.

Các nhà máy Ukraine, chủ yếu là ArcelorMittal Kryviy Rih, thấy rằng mức chênh lệch giá đủ cao để tạo ra lợi nhuận bất chấp thuế hải quan 5% trên tất cả các lô hàng thép Ukraina và thuế chống bán phá giá 9,32-10,11% trong kim ngạch xuất khẩu thanh cán nóng của nó vào đến vùng lãnh thổ trong liên minh kinh tế giữa Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan.

Vì vậy trong Q2 thép cây nhập khẩu vào Nga tăng gần gấp đôi quý với quý trước, đạt 65.000 tấn, tăng so với 35.000 tấn trong Q1. Sự gia tăng này chủ yếu là do sự xuất hiện của mức giá chênh lệch tăng giữa giá trong nước so với giá xuất khẩu. Ngược lại, giai đoạn giữa tháng 12/2015 và tháng 4/2016 mức giá chênh lệch tăng là bằng không. Giá CPT Moscow đã thấp hơn cả giá phôi thanh FOB Biển Đen, theo định giá của Platts.

Khối lượng nhập khẩu đã thêm vào quá nhiều và kết quả cung thừa đang buộc giá đi xuống; các nhà máy của Nga đã phản ứng bằng cách cắt giảm sản lượng. Một công ty cho biết các lô hàng tháng Bảy và tháng Tám của mình giao cho các khách hàng trong nước sẽ vào khoảng 110.000-115.000 tấn  một tháng, giảm từ mức 135.000 tấn trong tháng Sáu. Điều này được hiểu rằng hai công ty lớn khác cũng đang giảm doanh số bán hàng tháng của mình, xấp xỉ khoảng 10.000-15.000 tấn mỗi tháng.

Điều đó nói rằng, các nhà máy vẫn phải điều chỉnh giá chốt cho sàn lượng tháng Bảy, giảm còn  30.500 rúp (458usd)/tấn đối với thép cây đường kính 12mm và 30.000rúp (450usd)/tấn cho thép cây đường kính 14mm trên cơ sở đã giao Moscow. Không bao gồm 18% thuế VAT mức giá này tương đương lần lượt là 25.850 rúp (388usd)/tấn và 25.420 rúp (381usd)/tấn.

 

Các mức này cho thấy mức giảm 850 rúp (13usd)/tấn, từ mức chốt sơ bộ sơ bộ và giảm 5.500 rúp (83usd)/tấn so với tháng trước. Hôm 29/07 Platts giảm định giá thép cây 12-14mm của Nga 855 rúp (13usd)/tấn so với tuần trước, còn 25.450-25.800 rúp (382-387usd)/tấn CPT Moscow.

Giá quặng sắt tăng trong lúc thị trường khan hiếm nguồn cung

Giá quặng sắt giao ngay được hỗ trợ đầu tuần trước vì nhu cầu gia tăng, nhờ giá thép cao hơn và nhu cầu tái bổ sung hàng dự trữ. Tuy nhiên, giá hướng xuống vào cuối tuần khi khách hàng bắt đầu rút lui khỏi thị trường.

Hôm 29/7, Platts định giá 62% Fe IODEX ở mức 60 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 55 cents so với ngày trước đó nhưng cao hơn 3,35 USD/dmt so với 1 tuần trước. Chỉ số quặng 62% Fe của TSI tăng 3,1 USD/dmt đến cuối tuần chốt tại 58,8 USD/dmt CFR Thiên Tân.

Nhu cầu mạnh mẽ vì các nhà máy tìm đảm bảo có được các lô hàng sau khi sắp kết thúc lệnh cấm thiêu kết ở Đường Sơn, khiến nhu cầu nguyên liệu tồn tại các cảng và cả quặng nhập khẩu đều tăng. Các nhà máy ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc đã bị yêu cầu ngưng tất cả việc thiêu kết từ ngày 25-31/7 để giảm bớt ô nhiễm không khí.

“Đã từng hơi khó để giao nguyên liệu tới nhà máy, những chiếc xe tải lớn không được phép thông hành”, một nhà máy nói. Các nguồn tin cho biết lệnh cấm thiêu kết đã hỗ trợ cho giá thép trong ngắn hạn nhờ sản lượng bịcắt giảm.

Tuy nhiên, người mua bắt đầu nán lại việc thu mua hôm thứ Sau, một khi giá quặng sắt phá vỡ mốc 60 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, do lo ngại đà phục hồi có thể không bền vững.

Khoảng cách giữa các lô hàng 62% Fe loại trung bình với loại 65% Fe tiếp tục tăng từ 4,25 USD/dmt 1 tuần trước đó lên 7,2 USD/dmt hôm thứ Sáu, vì các nhà máy tỏ ra muốn mua quặng loại cao cấp hơn. Platts cũng định giá quặng cục giao ngay là 0,185 USD/dmtu hôm thứ Tư, tăng 0,0105 USD/dmtu so với 1 tuần trước đó.

Trung Quốc: Giá OCTG xuất khẩu tăng do thị trường trong nước cao hơn

Giá xuất khẩu có thể giao dịch cho các sản phẩm dùng trong ngành dầu khí (OCTG) xuất xứ Trung Quốc vào cuối tháng 7 tăng so với tháng trước, phần lớn là nhờ giá thép trong nước phục hồi và chi phí nguyên liệu sản xuất tăng.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá  R3-length API J/K55 177.8x8.05mm (7 inch, 23 lb/ft) là 500-540 USD/tấn FOB cảng Thiên Tân, tăng 30 USD/tấn so với tháng trước đó.

Một nhà máy ở miền đông cho biết các nhà máy đang cân nhắc nâng giá sớm cho phù hợp với sự mạnh lên của thị trường nội địa trong suốt tuần cuối cùng của tháng. Giá thép tròn đặc trên thị trường giao ngay một lần nữa đã tăng 30-50 NDT/tấn (5-8 USD/tấn), nên đã kéo giá của các nhà máy ống thép tăng theo trong tuần này, thêm vào đó việc thương lượng với các nhà máy về việc cắt giảm giá khó khăn hơn vì tất cả các nhà sản xuất đều có kế hoạch sớm nâng giá lên hơn 10 USD/tấn.

Một nhà máy khác ở miền đông cho biết ông có thể sẽ nâng giá sớm để chạy theo những đợt tăng lớn được nhìn thấy trên thị trường giao ngay mặc dù ông thừa nhận mình không có đơn hàng nào trong tay vào lúc này. Nhưng người bán sẽ thận trọng về việc nâng giá vì thị trường nước ngoài được dự báo sẽ vẫn còn ảm đạm trong nửa cuối năm nay. Gần đây ông đã chào giá 510 USD/tấn FOB.

Một số nhà sản xuất thép tròn đặc lớn lại tăng giá niêm yết tháng 7 lên thêm 130-330 NDT/tấn (20-50 USD/tấn)- một động thái đã hỗ trợ mạnh mẽ cho thị trường ống đúc giao ngay trong tháng này.

Trong khi đó, theo Hải quan Trung Quốc, xuất khẩu OCTG đúc của cả nước tiếp tục trì trệ trong nửa đầu năm nay, với tổng khối lượng xuất đi giảm 8% so với năm trước đạt 636.787 tấn.

Giá CRC không gỉ Châu Á tăng do giá nhà máy cao hơn

Giá thép không gỉ Đông Á tiếp tục xu hướng đi lên trong tuần trước do niken và giá niêm yết từ các nhà máy cao hơn. Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B được sản xuất từ Đài Loan và Hàn Quốc tuần trước được định giá tăng 20 USD/tấn lên 1.850-1.920 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á.

Chào giá từ Đài Loan và Hàn Quốc đều tăng cùng với giá xuất xưởng của các nhà máy cao hơn, bởi giá niken leo thang. Các nhà máy Đài Loan đã nâng giá niêm yết xuất khẩu cho tháng 8  một cách mạnh tay vào cuối tuần trước. CRC 304 của Yieh United Steel Corp, nhà sản xuất hàng đầu Đài Loan, đã tăng 120 USD/tấn lên khoảng 2.100 USD/tấn FOB.

Một thương nhân khác dự báo sẽ nhận được giá niêm yết chính thức mới trong tuần này. Nhưng cần thời gian theo dõi thị trường giao ngay để xác định liệu mức tăng này có được người mua chấp nhận hay không. Ngoài ra, giá cao của các nhà sản xuất Đài Loan không hấp dẫn khách hàng vào lúc này do chào giá Trung Quốc tương đối thấp hơn.

Tại thị trường Trung Quốc, các nhà xuất khẩu chào giá khoảng 1.750-1.800 USD/tấn USD/tấn FOB cho 304 2mm 2B CRC được sản xuất từ các nhà máy hàng đầu trong nước.

 “Đó là một giai đoạn thiếu vắng chào giá xuất khẩu, vì các thương nhân phần lớn đang đợi giá xuất khẩu mới của các nhà máy”, một thương nhân ở miền nam nói. Do vậy, các thương nhân đã ngưng chào giá để giao kỳ hạn, và chỉ chào giá để giao ngay. Tuần trước giá thị trường giao ngay ở miền nam Trung Quốc chỉ tăng chưa tới 100 NDT/tấn (15 USD/tấn).

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.530-10.535 USD/tấn hôm 28/7, giảm 110 USD/tấn so với tuần trước đó.

Giá tấm mỏng Mỹ duy trì ổn định hết tháng Bảy

Giá thép cuộn cán nóng và cán nguội kết thúc tuần trước, và tháng Bảy trì trệ, ổn định do hoạt động thu mua ít ỏi bất chấp hàng tồn kho ở mức thấp.

Platts duy trì đánh giá HRC và CRC hàng ngày ở 610-630usd/tấn ngắn và 820-840usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá này được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết đã nhìn thấy HRC từ  610usd/tấn ngắn đến 640 usd/tấn ngắn, với một nhà máy có giá thấp hơn do chi phí vận chuyển. Tuy nhiên, ông nói là không có gì lớn diễn ra trong hoạt động, nhưng các nhà máy đã cố gắng để giữ giá tăng “đi vào đàm phán hợp đồng” vào cuối năm nay.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ khác đồng ý giá HRC khoảng  605-610usd/tấn ngắn cho một số người mua, trong khi các nhà máy tích hợp sẽ không từ bỏ mức 630usd/tấn ngắn. Ông cũng ghi nhận sự yên ắng của thị trường và bất chấp dữ liệu hàng tồn kho tháng Sáu của Metals Service Center Institute cho thấy chỉ còn có nguồn cung thép cán dẹt trong 2 tháng tại các trung tâm dịch vụ, mức tồn kho tháng Bảy sẽ kinh khủng hơn.

Tuy nhiên, ông dự kiến ​​ hoạt động sẽ tăng lên do khách hàng quay trở lại và mùa bảo trì và không kỳ vọng nhiều vị thế tăng cho đến khi hàng nhập khẩu cập bến trong Q4.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ ba cũng nói là thị trường rất yên ắng nhưng ghi nhận tác động tích cực gần đây của các vụ điều tra thương mại.

Ông tin rằng sự gia tăng thu mua trong nước, cùng với mức tồn kho thấp, sẽ hỗ trợ để giữ vững thị trường.

 

Một nguồn tin nhà máy cũng cho biết thị trường yên tĩnh, nói rằng khách hàng cảm thấy "”không cần thiết để mua ngay và người bán không nhìn thấy giảm giá thấp hơn vì không cần phải nhận được nhiều đơn đặt hàng hơn nữa. Vì vậy, những người tham gia thị trường đang đứng lại và không di chuyển.”

Thép cây Châu Á tiếp tục tăng do chào giá Trung Quốc cao hơn

Hôm 29/7, giá thép cây giao ngay ở Châu Á tiếp tục tăng trong ngày thứ 2 do giao dịch diễn ra ở mức cao hơn trong bối cảnh giá trong nước biến động mạnh. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 325-328 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tăng 1,5 USD/tấn so với thứ Năm.

Các nhà máy Trung Quốc đã chọn cách đợi bên lề vào đầu tuần trước nhưng bị kích động từ ngày thứ Năm trong việc nâng chào giá sau khi giá giao sau tăng liên tục đã cổ vũ cho giá trong nước. Một nhà máy ở miền đông vẫn giữ chào giá ở mức 350 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một nhà máy ở miền nam thì nâng chào giá lên 356 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở đông bắc thì tăng chào giá lên 340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Nghe nói một giao dịch tới Singapore được chốt với giá 330 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết hôm thứ Năm, tương đương 328 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một giao dịch khác tới Hong Kong được ký kết với giá cao hơn là 330 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế trong tuần trước, tương đương 324 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 6 USD/tấn.

Các nhà máy Trung Quốc duy trì chào giá tới Hong Kong trên mức 340 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 334 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 6 USD/tấn.

Chào giá từ các nhà máy tới  Singapore là khoảng 340-345 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 338-343 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một nhà tích trữ ở đây cho biết giá có thể theo xu hướng đi xuống nhưng tốc độ sẽ chậm lại.

Một nhà tích trữ khác ở Singapore cho biết việc nhập khẩu ở mức giá hiện nay đồng nghĩa với bị lỗ trên giấy tờ vì thật khó để bù đắp chi phí với giá trong nước hầu như không trên 300 USD/tấn giao hàng.

Giao dịch phôi thanh Trung Quốc thu hẹp lại ở Châu Á do giá bất ổn

Sự biến động liên tục trong giá phôi thanh Trung Quốc đang khiến các nhà nhập khẩu ở khu vực Đông Á vẫn còn ở bên lề. Nhu cầu thép cây trì trệ trong suốt quý này đang  mang đến cho họ sự linh hoạt để làm như vậy.

Platts duy trì định giá cho phôi thanh 120mm/130mm Đông Á nhập khẩu là 315-325 USD/tấn CFR, mức giá trung bình 320 USD/tấn CFR.

Chào giá xuất khẩu Trung Quốc tăng cùng với giá trong nước vào đầu tuần trước. “Tôi không nghe nói đơn hàng nào”, và cho rằng các nhà nhập khẩu sẽ không mua nếu không cần thiết bởi vì họ sợ lặp lại tình trạng không giao hàng nếu như giá tăng. Ông tin là giá phôi thanh Trung Quốc sẽ sớm đi xuống vì nguồn cung hạn chế phát sinh từ những trận lụt gần đây ở Trung Quốc, bây giờ đã được giải quyết.

Tại Manila, chào giá cho phôi thanh 120mm Trung Quốc giao tháng 9 đang phổ biến ở mức 340 USD/tấn CFR cho loại Q235 và 345 USD/tấn CFR cho loại Q275. Sự gia tăng đột ngột trong giá đang khiến cho người mua chần chừ và chờ xem liệu mức cao hơn có đứng vững hay không. Một thương nhân cho biết các nhà cán lại đã có đủ phôi thanh cho tháng 9 và thậm chí một số còn đủ cho tới tận tháng 10. Ông cũng tin là sự khan hiếm nguồn cung do lũ lụt gây ra chỉ là tạm thời và giá có lẽ sẽ giảm trở lại.

Phôi thanh trước đây nghe nói được đặt mua với giá 320-325 USD/tấn CFR ở  Manila trong tuần trước. Tại Thái Lan, thị trường trầm lắng với không có đơn hàng nào được nghe nói. Người bán Trung Quốc đã nâng chào giá cho phôi 150mm Q235 lên 330 USD/tấn CFR.

Căn cứ theo giá thép cây Thái Lan phổ biến thì một một thương nhân cho biết các nhà cán lại chỉ có thể trả với giá tối đa là 305 USD/tấn CFR cho phôi 150mm Q275 để hòa vốn. “Các nhà máy đã cố gắng nâng giá thép cây nhưng không có ai mua”, do thị trường trì trệ.

 

Trong khi đó, giá phôi thanh Trung Quốc một lần nữa đã tăng trong nửa đầu tuần trước cùng với sự mạnh lên của thị trường thép cây giao kỳ hạn Thượng Hải. Giá niêm yết ở Đường Sơn tăng tổng cộng 80 NDT/tấn (12 USD/tấn) trong thứ Tư và Năm nhưng sau đó giảm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) vào cuối ngày thứ Sáu và chốt tại 2.030 NDT/tấn  (305 USD/tấn), tăng 30 NDT/tấn so với tuần trước đó.

Trung Quốc: Giá thép tấm xuất khẩu có xu hướng đi lên trong tháng 7

Giá xuất khẩu của thép tấm xuất xứ Trung Quốc tăng đáng kể suốt tháng 7, phần lớn là do giá thép tấm trong nước và HRC xuất khẩu tăng.  

Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 12-30mm  ở mức 345-350 USD/tấn FOB hôm 29/7, mức trung bình 347,5 USD/tấn FOB, tăng 17,5 USD/tấn so với cuối tháng 6.

Tại thị trường Trung Quốc hôm thứ Năm, Platts định giá thép tấm cùng loại là 2.510-2.580 NDT/tấn (377-388 USD/tấn) ở Thượng Hải, cao hơn cuối tháng 6 165 NDT/tấn.

Các nhà xuất khẩu cho biết một số giao dịch cho các sản phẩm thép tấm của một nhà máy lớn đã được chốt ở quanh mức 350 USD/tấn FOB, trong khi các thương nhân với tồn kho thép tấm vẫn đang bán với giá 345 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các giao dịch xuất khẩu thép tấm nhìn chung trì trệ trong tháng 7 do nhu cầu ở nước ngoài suy yếu. “Thị trường xuất khẩu thép tấm gần đây đã trì trệ, đó là lý do tại sao mức tăng mà chúng ta nhìn thấy trong giá thép tấm xuất khẩu đã nhẹ hơn nhiều so với thị trường trong nước”, một nhà xuất khẩu Trung Quốc cho biết.

Tại thị trường Trung Quốc, các thương nhân ở Thượng Hải cho biết tồn kho thép tấm tại thị trường giao ngay nhìn chung đang ở mức thấp trong suốt tháng 7. “Mặc dù nhu cầu tiêu thụ trực tiếp đã không trải qua sự cải thiện rõ rệt nào nhưng tồn kho thấp và giá thép giao kỳ hạn tăng có thể sẽ kéo giá thép tấm giao ngay đi lên trong tháng này”.

Ông tin là có thể thấy giá giao ngay tăng hơn nữa trong tháng 8 và 9, do sự hồi phục của lực cầu và chính sách tiền tệ nới lỏng của chính phủ.

Phôi tấm được sự hỗ trợ bởi quặng sắt và HRC ở Đông Á

Thị trường phôi tấm nhập khẩu ở Đông Á ổn định trong suốt nửa cuối tháng 7 sau khi giá rớt vào đầu tháng. Các nhà cung cấp đang duy trì chào giá do giá HRC Trung Quốc và quặng sắt ổn định.

Một vài thương nhân cho biết lần cuối họ nghe nói một giao dịch phôi tấm cán lại từ Nga được chốt với giá 335 USD/tấn CFR Indonesia trong suốt tuần đầu tiên của tháng 7. Khối lượng thường được đặt mua sẽ là 40.000 tấn.

Các nhà cung cấp Nga hiện đang chào giá phôi tấm 335-345 USD/tấn CFR Đông Á, nhưng thị trường im ắng, với các thương nhân cho biết họ không nghe nói có giao dịch nào được thực hiện gần đây. “Người mua muốn hạ giá xuống nhưng tôi không chắc liệu họ có thành công hay không”, một thương nhân Đài Bắc cho biết. Người mua trong khu vực sẽ không hỏi mua với giá trên 330 USD/tấn CFR cho phôi tấm.

Tại Thái Lan, thị trường trầm lắng với không có giao dịch nào gần đây được nghe nói. Phôi tấm cán lại Iran được chào giá tới khu vực này có giá 320-325 USD/tấn FOB. Phí vận chuyển cho 50.000 tấn tới Thái Lan là khoảng 12 USD/tấn.

Các nhà nhập khẩu Thái Lan sẽ không muốn trả hơn 330 USD/tấn CFR, một thương nhân Bangkok cho biết giá HRC phổ biến ở đây không thể hỗ trợ cho chi phí phôi tấm cao hơn.

Hôm 29/7, Platts định giá hàng tháng cho SAE1008, SAE1006 hay loại phôi tấm tương đương có giá 335-340 USD/tấn CFR, giảm từ 350-360 USD/tấn CFR vào cuối tháng 6. Mức giá trung bình 337,5 USD/tấn, thấp hơn 17,5 USD/tấn so với tháng trước đó.

 Giá Trung Quốc suy yếu đã chặn đứng đà tăng HRC Châu Á

Đà tăng của giá HRC giao ngay ở Châu Á trong tuần trước đã chấm dứt hôm thứ Sáu bởi vì thị trường Trung Quốc nguội lại. Mặc dù người mua ở nước ngoài vẫn tránh xa thị trường nhưng hy vọng cho xu hướng xuất hiện rõ ràng hơn trong tuần đầu tiên của tháng 8.

Platts định giá SS400 HRC 3.0mm trong khoảng 362-367 USD/tấn FOB, không đổi so với ngày trước đó. Thép cuộn cùng loại được định giá 370-375 USD/tấn CFR Đông Á, bằng với tuần trước đó. Tại thị trường Thượng Hải cùng ngày, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.650-2.660 NDT/tấn (398-400 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 35 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Một nhà máy ở miền bắc đã hạ chào giá cho  SS400 HRC xuống 5 USD/tấn còn 375 USD/tấn FOB do giá trong nước suy yếu, mặc dù không thu hút được ai đặt mua. Các nhà máy khác tiếp tục giữ chào giá không đổi tại mức 370 USD/tấn FOB trở lên và người mua cũng tỏ ra ít quan tâm.

“Thị trường vẫn đang u ám, nhiều khách hàng lớn đang đợi bên lề. Tôi nghĩ một số thương nhân sẽ hạ chào giá của họ sớm để thanh lý hàng tồn của  họ”, một thương nhân người Việt nói. Một số người mua sẽ cân nhắc mua SS400 HRC với giá 370 USD/tấn CFR Việt Nam cho khối lượng nhỏ.

Thị trường Hàn Quốc cũng im ắng hôm thứ Sáu tuần trước mà không có bất kỳ giá mua hay bán nào được nghe nói. Một thương nhân nghĩ giá xuất khẩu Trung Quốc sẽ sớm giảm do cầu yếu.

Đối với thép cuộn SAE, một giao dịch cho 2.000 tấn được sản xuất bởi Xinyu Iron & Steel được nghe nói chốt với giá 393 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Năm. Nhưng ông chỉ nhận được một giá hỏi mua là 384 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Sáu và một vài thương nhân thắc mắc liệu giá thanh toán có thực sự cao hay không. Họ khẳng định mức giá 385 USD/tấn CFR Việt Nam là mức cao nhất mà khách hàng sẽ đặt mua.

Một nhà máy Đài Loan chào giá 405 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE1006 2.0mm.