Giá phôi phiến châu Á giảm do sự cạnh tranh đến từ các nhà máy của Nga
Giá phôi phiến (slab) tiếp tục giảm trong tháng thứ năm liên tiếp, do nguồn cung giá rẻ đến từ các nhà máy của Nga cũng như áp lực từ giá thép thành phẩm đang sụt giảm.
S & P Global Platts định giá hàng tháng cho phôi phiến SAE1008, SAE1006 hoặc loại tương đương ở mức 495- 505 USD/tấn CFR Đông Nam Á hôm thứ Tư, giá trung bình 500 USD/tấn, giảm 25 USD/tấn so với tháng 9.
Theo một nhà kinh doanh, một nhà máy Nhật Bản đã bán phôi phiến của mình cho Thái Lan với giá 505 USD/tấn CFR Thái Lan cho tháng 12, giảm 30- 40 USD/tấn so với chào giá bán của nhà máy cho hàng giao tháng 11.
Một nhà máy của Đài Loan đã mua phôi phiến của Nga với giá 480 USD/tấn CFR Đài Loan trong suốt tuần thứ ba của tháng Mười. Tuy nhiên, một thương nhân cho biết giá chào mua mới nhất được nghe nói từ người mua Đài Loan chỉ có 465 USD/tấn CFR Đài Loan.
Vào cuối tháng 10, giá chào bán cho phôi phiến xuất xứ của Nga đã được nghe ở mức 450- 460 USD/tấn FOB Biển Đen. Theo các nguồn tin thị trường, cước vận chuyển từ cảng Biển Đen đến Đài Loan là khoảng 25 USD/tấn, thấp hơn 10- 15 USD/tấn so với cước vận chuyển từ Biển Đen đến Đông Nam Á.
Phôi phiến xuất xứ Iran đã được chào bán với giá 430 - 435 USD/tấn FOB Iran, giảm 70 USD/tấn so với giao dịch gần đây nhất được thực hiện tới châu Á vào tháng 7, trước khi tái thực hiện các biện pháp trừng phạt của Mỹ.
Trong khi đó, các loại thép ở châu Á được định giá thấp hơn trong suốt tháng 10. Trong số những loại khác, thép cuộn cán nóng loại SAE 1006 được định giá ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam, giảm 20 USD/tấn suốt tháng 10, theo số liệu của Platts.
Theo một thương nhân Đài Loan, các nhà máy thép hầu như không thể duy trì biên lợi nhuận 80 USD/tấn giữa phôi phiến và HRC. Tuy nhiên, 80 USD/tấn sẽ không đủ để trang trải chi phí chuyển đổi từ phôi phiến sang HRC dựa trên giá năng lượng hiện tại.
Giá xuất khẩu OCTG của Trung Quốc giảm cùng với thị trường trong nước
Giá xuất khẩu của ống đúc dùng làm đường ống dẫn dầu (OCTG) Trung Quốc giảm nhẹ trong tháng 10, cùng với sự mất giá của đồng Nhân dân tệ và sụt giảm được nhìn thấy trên thị trường nội địa Trung Quốc.
S & P Global Platts định giá độ dài R3-length API J/K55 casing - với khớp nối kích thước 177,8 x 8,05 mm (7 inch, 23 lb / ft) - từ các nhà máy Trung Quốc và dây chuyền hoàn thiện ở mức 940- 980 USD/tấn FOB cảng Thiên Tân hôm thứ Tư, với mức giá trung bình là 960 USD/tấn, giảm 15 USD/tấn so với tháng 9.
Một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc dự kiến sẽ giảm chào giá một chút cho hàng giao cuối tháng 01, do đồng NDT mất giá trong tháng Mười, nguồn tin nhà máy cho biết.
"Nhà máy này muốn ký kết một số giao dịch cho sản lượng trong mùa đông, đây là thời gian nhu cầu thép thường chậm lại, và do đó, nhà máy sẽ cởi mở hơn để thương lượng giá xuống một chút dưới 950 USD/tấn FOB", ông nói.
Một nhà máy thứ hai ở miền Trung Trung Quốc vẫn đang chào giá 970- 990 USD/tấn FOB cho ống chống tạm thành phẩm (finished casing), không đổi so với tuần trước, nguồn tin nhà máy cho biết. Đồng tiền Trung Quốc mất giá sẽ là một lợi thế cho nhà máy để bán tới thị trường xuất khẩu, ông nói.
Thị trường trong nước của Trung Quốc đã suy yếu nhẹ trong tháng này cùng với giá thép tròn đặc thấp hơn, nguyên liệu dùng để cán ống thép, một thương nhân miền đông Trung Quốc cho biết. Giá thị trường giao ngay tại miền đông Trung Quốc đã giảm khoảng 100-150 NDT/tấn (14 - 22 USD/tấn) trong tháng 10, ông nói.
Trong tháng 10, các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở miền đông Trung Quốc đã giảm giá niêm yết của họ xuống 80-100 NDT/tấn, Platts đưa tin trước đó.
Tranh cãi giữa người mua và nhà máy tấm mỏng tại thị trường Mỹ tiếp tục
Sự bế tắc giữa người mua và nhà sản xuất tấm mỏng của Mỹ tiếp tục vào thứ Tư khi giá được duy trì dựa trên các giao dịch mới hạn chế.
Chỉ số cuộn cán nóng Platts TSI hàng ngày được giữ ở mức 832,25 USD/st trong khi định giá cuộn cán nguội Platts TSI hàng tuần cũng không thay đổi ở mức 922,75 USD/st.
Đây là một “cuộc thi tập trung thời điểm quan trọng hiện tại”, theo một nguồn tin trung tâm dịch vụ. Các OEM "cuối cùng cũng bắt đầu đưa ra quyết định và tôi nghe nói rằng các nhà máy rất hài lòng với kết quả tại thời điểm này", nguồn tin trung tâm dịch vụ nói thêm.
"Tôi không nghe về bất kỳ giao dịch dưới 800 USD/st nhưng cũng không nghe bất cứ điều gì tại mức 850 USD/st" cho HRC, ông nói thêm. Ông đã thừa nhận ông đã tham gia một cách hạn che611 trong bất kỳ giao dịch mua mới nào nhưng hầu hết chào giá bán cho trọng tải nhỏ đều nằm trong phạm vi 820 USD/st. Tuy nhiên, ông nói rằng ông đã không thúc ép mạnh mẽ các nhà máy cứng về giá cả vì hoạt động hạn chế của mình.
Một thương nhân cho biết ông đã nhìn thấy thị trường Mỹ là không thay đổi. Một nhà máy mini vừa mới mở đơn đặt hàng HRC tháng 12, không cho thấy sự thắt chặt nguồn cung và giá tăng trong tháng vừa qua đã ổn định thị trường hơn là đẩy giá cao hơn.
Thời gian giao hàng trung bình của HRC vẫn không thay đổi so với tuần trước, trong khi CRC và HDG kéo dài ra. Thời gian giao hàng HRC trung bình 4,7 tuần, trong khi CRC và HDG tăng 0,2 tuần lên trung bình 6,5 tuần, theo số liệu của Platts.
Thời gian giao hàng HRC có trung bình ít hơn năm tuần kể từ ngày 10 tháng 9 nhưng đã hồi phục nhẹ kể từ mức thấp nhất trong năm 2018 là 4,2 tuần vào ngày 8 tháng 10.
Lợi nhuận giảm buộc các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cắt giảm sản lượng
Do nhu cầu thép cây trong nước vẫn chậm mặc dù tỷ giá ổn định hơn trong những tuần gần đây và nhu cầu xuất khẩu vẫn thấp hơn kỳ vọng, một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định giảm công suất sản xuất, trong khi một số nhà máy vẫn tiếp tục hoạt động hết công suất vì họ vẫn hy vọng rằng giá sẽ điều chỉnh và họ có thể tìm thấy các điểm đến mới.
Sự sụt giảm đáng kể về lợi nhuận của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong bối cảnh giá phế nhập khẩu mạnh là một nguyên nhân cơ bản khác trong các quyết định cắt giảm sản lượng của các doanh nghiệp, cũng như những hy vọng chưa thành hiện thực rằng Mỹ có thể giảm thuế nhập khẩu cho Thổ Nhĩ Kỳ còn 25%.
"Chúng tôi đã quyết định giảm sản lượng trong tháng 11 20%, do lợi nhuận của chúng tôi giảm xuống mức rất thấp. Mặc dù giá phế nhập khẩu tăng dần và chi phí đầu vào khác của chúng tôi cũng tăng, chúng tôi không thể phản ánh mức tăng này vào giá thành phẩm được n," một nhà quản lý của một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ nói.
"Mặc dù có sự tăng giá trong đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ trong những ngày gần đây, chúng tôi vẫn chưa thấy sự gia tăng đáng kể nhu cầu thép cây trong nước. Nhu cầu xuất khẩu vẫn tốt hơn, nhưng vẫn thấp hơn kỳ vọng của chúng tôi. Chúng tôi hiện đang nhận được nhu cầu từ Đông Nam Á cũng như một số nước Trung Đông và châu Phi, nhưng chúng tôi không thể nói về một thị trường nổi bật," ông nói.
"Chúng tôi đang cố gắng đẩy giá chào bán của chúng tôi lên trên mức 510 USD/tấn, nhưng áp lực giảm giá của người mua vẫn đang tiếp tục. Trong tâm lý này, chúng tôi buộc phải cắt giảm công suất của mình", ông nói thêm.
Một nhà sản xuất thép dài khác ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ cũng nói rằng họ đang có kế hoạch cắt giảm sản lượng 20% trong tháng 11, do nhu cầu chậm, cũng như trong một tuần bảo trì vào tháng 12.
Tuy nhiên, một nguồn tin nhà máy, quan sát thấy rằng việc cắt giảm sản lượng thép cây 20% là quá muộn để tránh thua lỗ, vì chúng đã xảy ra rồi. "Tôi không quá lạc quan về tình hình thị trường hiện tại, ngay cả khi lệnh cấm vận của Mỹ sẽ được dỡ bỏ", ông nói. "USD yếu hơn đang cung cấp một lạc quan nhỏ trong tâm lý, và cho phép mua phế dựa trên các điều kiện tốt hơn."
Thổ Nhĩ Kỳ có dân số 80 triệu người và tiêu thụ thép cây trong nước mỗi năm là rất lớn ở mức 13-14 triệu tấn/năm trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của nhu cầu ngành xây dựng. Tuy nhiên, sự sụt giảm mạnh trong nhu cầu trong nước, trong bối cảnh sụt giảm mạnh của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ, đã tác động đáng kể lên nhu cầu của ngành xây dựng trong những tháng gần đây.
Mặc dù các nhà xuất khẩu đa dạng hóa doanh số của họ bằng cách tập trung vào các thị trường thay thế để bù đắp sự suy giảm đáng kể ở một số thị trường truyền thống chính, đặc biệt là Mỹ do thuế suất Mục 232, xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm 4% trong năm xuống còn 3,79 triệu tấn trong tám tháng đầu năm.
Mỹ áp dụng mức thuế 25% cho tất cả các loại thép nhập khẩu hồi đầu năm nay như là một phần của sáng kiến an ninh quốc gia Mục 232 của mình, nhưng sau đó đã tăng mức thuế đối với Thổ Nhĩ Kỳ lên 50% vào mùa hè này. Do sự phát triển này đóng cửa thị trường Mỹ đối với các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ, các lô hàng thép của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đến quốc gia đó gần như đã giảm xuống mức 0.
Những người tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ hy vọng rằng chính quyền Trump sẽ giảm thuế tăng gấp đôi sau khi phóng thích mục sư người Mỹ bị giam giữ lâu năm Andrew Brunson vào ngày 12 tháng 10. Tuy nhiên, kỳ vọng này vẫn chưa được hiện thực hóa.
Trong khi đó, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng duy trì giá xuất khẩu thép cây trên mức 510 USD/tấn FOB trong tuần này, trong bối cảnh giá phế nhập khẩu đang dần tăng, vượt mức 335 USD/tấn CFR cho HMS 1/2 (80:20) gần đây, nhưng giá hỏi mua thép cây của người mua xuất khẩu vẫn còn khoảng 500 USD/tấn FOB thứ tư.
Phế Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh triển vọn giá cả ổn định
Giá nhập khẩu đối với phế ferrous của Thổ Nhĩ Kỳ đã ổn định hôm thứ Tư vì phần lớn người tham gia thị trường dự kiến sẽ không có sự thay đổi về giá cả.
Platts định giá nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ của phế HMS 1/2 (80:20) ở mức 336,50 USD/tấn CFR thứ Tư, không thay đổi trong ngày.
Một doanh số bán một thương nhân phế của châu Âu cho một nhà máy ở Izmir được báo cáo cho thị trường sáng thứ Tư, bao gồm 31.000 tấn HMS 1/2 (75:25) ở mức 326 USD/tấn và 4.000 tấn phế bonus với giá 341 USD/tấn và đã được thực hiện trong một thỏa thuận hôm thứ Sáu - trước khi một giao dịch Baltic báo cáo hôm thứ Ba - theo một số nguồn tin trên thị trường.
Tuy nhiên, ít hoạt động giao dịch mới được báo cáo hôm thứ Tư khi các nhà cung cấp thị trường duy trì chỉ số giá chủ yếu phù hợp với giao dịch mới nhất từ Baltics.
Cũng có một chút bất đồng về triển vọng giá ngắn hạn, với người tham gia hai bên mua và bên bán kỳ vọng giá sẽ giảm.
Trong khi hai nguồn tin nhà máy dựa ở Iskenderun đưa giá trị thị trường vào khoảng 336-337 USD/tấn CFR, một thương gia châu Âu dự kiến sẽ có sự kháng cự của người mua ở mức giá này.
Một nguồn tin giao dịch cho biết giá nhập khẩu vào thứ Tư đã "được chốt và ổn định", tuy nhiên, một thỏa thuận khác cho lô hàng tháng 11 có thể khiến giá tăng hơn nữa.
Tuy nhiên, quan điểm trái chiều về xu hướng giá trung hạn trong những tuần tới vẫn tồn tại. Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã thông báo cắt giảm sản lượng trong tháng 11, giảm công suất tới 20%, điều này có thể gây áp lực lên giá nhập khẩu phế, theo một số nguồn tin.
“Phế sẽ giảm hoặc là Thổ Nhĩ Kỳ giảm sản lượng,” một nhà quản lý mua hàng tại một nhà máy Iskdenderun nói với Platts, thêm rằng nhà máy của ông sẽ cắt giảm sản lượng 20% trong tháng 11 và cũng sẽ bảo dưỡng trong tháng 12 trong một tuần.
Ngoài ra, việc cắt giảm sản lượng mùa đông ở Trung Quốc từ giữa tháng 11 sẽ làm giảm giá nguyên liệu thép khác như quặng sắt, điều này cũng có thể dẫn đến giá phế Thổ Nhĩ Kỳ thấp hơn.
Nhu cầu mua sắm đáng kể từ một số doanh nghiệp được xem là duy trì giá hiện tại, hoặc thậm chí sẽ khiến giá tăng lên khoảng 340 USD/tấn CFR và cao hơn, theo một đại lý của Thổ Nhĩ Kỳ. "[Giá hiện tại] sẽ là mức tối thiểu cho các lô hàng tháng 12", ông nói.
Trong khi phần lớn các nhà cung cấp Baltic đã bán, ít hoạt động được cho là nhắm mục tiêu khoảng 340 đô la/tấn CFR cho các giao dịch Thổ Nhĩ Kỳ tiếp theo của họ.
Giá thép dầm hình H Đông Nam Á giảm trong bối cảnh nhu cầu trì trệ
Giá nhập khẩu ở Đông Nam Á cho thép dầm bản rộng trong tháng 10 suy yếu trong bối cảnh giá chào bán thấp hơn do sức mua trì trệ, các nguồn tin cho biết.
S & P Global Platts định giá thép dầm hình H S275JR bản rộng ở mức 660- 680 USD/tấn CFR Đông Nam Á hôm thứ Tư, với mức trung bình là 670 USD/tấn, giảm 25 USD/tấn so với tháng Chín.
"Thị trường quá im ắng ở Malaysia và thậm chí còn tồi tệ hơn ở Singapore", một nguồn tin từ một nhà sản xuất thép dầm của Hàn Quốc cho biết.
Giá chào bán tới Singapore giảm cho cả thép dầm hình H cỡ cơ bản xuất xứ Hàn Quốc và Thái Lan xuống còn 660 - 670 USD/tấn CFR, thấp hơn 20 - 30 USD/tấn so với tháng trước, trong khi chào giá cho thép xuất xứ Nhật Bản ổn định ở mức 680 USD/tấn CFR, các nguồn tin cho biết.
"Nhật Bản muốn tăng giá, và chào giá bán sẽ sớm lên 680- 690 USD/tấn CFR Singapore", một thương nhân tại Singapore cho biết.
Trong khi đó, những người tham gia thị trường trong khu vực, bao gồm các nhà cung cấp và người tích trữ, vẫn còn hoài nghi về khả năng phục hồi trong hoạt động thị trường.
Giá HRC Ấn Độ ổn định nhờ sự hỗ trợ từ doanh số thép bán theo dự án
Giá giao ngay của thép cuộn cán nóng tại thị trường nội địa Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần, khi các nhà máy không bị áp lực thực sự về nhu cầu.
S & P Global Platts định giá HRC IS2062 dày 2,5-10 mm giao tới Mumbai ở mức 46.500 Rupee/tấn (629,80 USD/tấn) hôm thứ Tư, không thay đổi so với tuần trước. Định giá này chưa bao gồm thuế hàng hóa và dịch vụ GST 18%.
Đối với các nhà máy, nhu cầu ổn định từ các dự án nhiều đã hơn bù đắp cho niềm tin suy yếu trong phân khúc bán lẻ. Tuy nhiên, các thương nhân cho rằng sự im ắng hiện nay trên thị trường bán lẻ là do bắt đầu diễn ra lễ hội đón Tết năm mới theo đạo Hindu vào ngày 7 tháng 11.
Các nhà kinh doanh thừa nhận rằng việc thiếu thanh khoản trên thị trường trong nước, cũng như tính không ổn định của thép nhập khẩu, đã có tác động làm giảm nhu cầu bán lẻ trong vài tuần qua. Ngoài ra, sức mua thường giảm trước khi diễn ra lễ hội Diwali của đạo Hindu. "Theo truyền thống, 10 ngày trước lễ hội Diwali thì nhu cầu bắt đầu suy yếu, bởi vì nhân lực giảm. Việc giao hàng chặng cuối cùng chắc chắn chậm lại", một thương nhân cho biết.
Tuy nhiên, các nhà máy không cảm thấy áp lực về giá cả. "Bởi vì đơn đặt hàng xuất khẩu của các nhà máy Ấn Độ sụt giảm, nên nguồn hàng trong nước tăng lên. Nhu cầu không yếu chút nào. Nửa cuối năm tài chính nhu cầu luôn tốt hơn", một nguồn tin nhà máy cho biết. Xuất khẩu thép thành phẩm của Ấn Độ đạt 3,141 triệu tấn tính từ tháng 4-9, giảm 35,2% so với cùng kỳ năm trước, số liệu từ Joint Plant Committee thuộc Bộ Thép Ấn Độ cho thấy.
Những người tham gia thị trường bày tỏ sự tin tưởng vào nhu cầu mạnh mẽ và bền vững cho thép xuất phát từ các dự án cơ sở hạ tầng do chính phủ tài trợ, bao gồm cả việc mở rộng mạng lưới đường ống dẫn khí đốt và nước ở Ấn Độ.
Nhà máy khí thuộc sở hữu nhà nước của Ấn Độ đã tuyên bố hồi tháng Chín rằng sẽ mở rộng công suất mạng lưới đường ống của mình thêm khoảng 50% thông qua việc xây dựng 5.500 km đường ống mới trong ba năm tới.
"Nhu cầu thép từ phân khúc đường ống chiếm khoảng 9-10% nhu cầu thép của Ấn Độ. Do dầu và khí đốt là một đóng góp có ý nghĩa cho nhu cầu ống thép, nên bất kỳ sự gia tăng nào từ các dự án của chính phủ cũng sẽ hỗ trợ cho sự tăng trưởng thép", Isha Chaudhary, phó giám đốc tại CRISIL, một đơn vị của S & P Global, cho biết.
Các đại lý phế Mỹ duy trì lạc quan với các giao dịch tháng 11
Các nhà cung cấp phế duy trì sự lạc quan của họ cho sự tăng giá tháng 11 tại thị trường Mỹ khi các cuộc thảo luận từ từ chuyển sang chào gía chính thức ở một số khu vực vào tối thứ Tư.
Một nhà máy ở miền Trung Tây được cho là đang chào giá tăng 10 USD/lt cho các loại phế prime và tăng 20 USD/lt cho phế sạch và phế vụn vào chiều ngày thứ Tư. Ở những nơi khác vẫn yên ắng vì một số người nghĩ rằng giao dịch phổ biến sẽ bắt đầu vào sáng thứ Năm trong khi những người khác nghĩ rằng hầu hết các giao dịch sẽ được thực hiện vào tuần tới.
Ngoài các câu hỏi về thời điểm giao dịch, số phận của giá phế prime đang được tranh luận với không phải tất cả các nhà máy đều chấp nhận giá phế prime tăng.
"Tôi nghĩ rằng prime là đi ngang nhưng chắc chắn nó sẽ không giảm," một người mua nhà máy Trung Tây nói.
Như dự kiến, không có nhà máy nào được cho là đã hủy bỏ phế tháng 10 chưa được thực hiện trước khi kết thúc kinh doanh hôm thứ Tư, củng cố ý tưởng không có áp lực giảm giá trong tháng 11.
Các nguồn tin nhà máy khác cho biết họ đang chuẩn bị tăng giá đối với các loại obsolete, phần lớn là phế vụn và phế sạch như HMS và P&S.
"Có vẻ như phế sạch và phế vụn sẽ tăng 10 USD," một nhà cung cấp phế cho biết. "Tôi không có con số cho prime, nó di chuyển lên một chút hoặc đi ngang."
Một nguồn tin cho rằng một nhà máy lớn khác của Trung Tây sẽ gia nhập thị trường vào sáng thứ Năm với mức tăng 10 USD/lt cho prime và tăng 20 USD/lt cho phế vụn và phế sạch.
"Tôi nghĩ rằng prime sẽ tăng một chút và vụn ít nhất là 20 USD," một nhà cung cấp Đông Bắc cho biết. "Các đại lý đang kỳ vọng như vậy và sẵn sàng sẽ giữ lại nguồn cung."
Thời gian giao dịch có thể phụ thuộc vào sự sẵn sàng của các nhà máy để đưa ra giá cao hơn cho các nhà cung cấp phế.
"Tôi thấy cả người tiêu thụ và các đại lý đều muốn giao dịch sớm", một nhà môi giới cho biết. “Nếu các nhà máy trả tăng 20 đô la, chúng tôi bắt đầu [giao dịch trong tuần này]. Nếu họ cố gắng và mua tăng 10-15, nó sẽ chuyển sang tuần tiếp theo.”
Hai yếu tố có thể khiến các đại lý không chấp nhận ngay lập tức các đề xuất của nhà máy trong tuần này là triển vọng tăng giá dài hạn của họ về giá phế kéo dài vào tháng 1 trong một số trường hợp bổ sung vào lợi nhuận năm.
"Tất cả các đại lý đã kiếm tiền đang bắt đầu giữ lại cung", một đại lý phế cho hay về nhà cung cấp của mình. “Tôi chỉ cảm thấy có nhiều động lực hơn để giữ phế ở một số cấp độ. Tôi nghĩ rằng tháng 12 sẽ mạnh mẽ hoặc mạnh hơn tháng 11. Tôi nghĩ đây là thời điểm tốt để thực hiện một số giao dịch [dài hạn] nếu bạn tin tưởng vào nguồn cung cấp của mình. ”
Những giao dịch 60 và 90 ngày này đã được một số nhà máy tìm kiếm bắt đầu trong tuần mua tháng 10. Những yêu cầu của các nhà máy này kết hợp với tính thời vụ của thị trường do thời tiết mùa đông đến gần, các mối quan tâm hàng tồn kho của các nhà máy cuối năm và một thị trường tháng 1 điển hình đã khuyến khích một số đại lý.
"Các đại lý chắc chắn có kỳ vọng cao", một nhà cung cấp khác cho biết. “Tôi nghĩ rằng nó sẽ là một 90 ngày tốt. Tôi sẽ nói thị trường phế vụn sẽ tăng ít nhất 30 USD/lt từ đầu đến cuối [tháng 11 đến tháng 1]. Prime có một chút phức tạp hơn. Các nhà máy đang hành động như họ không muốn tặng chúng tôi một món quà Giáng sinh vào tháng 11.”
CRC châu Á sụt giảm do HRC và thép cuộn mạ kẽm có giá thấp hơn
Giá giao ngay đối với thép cuộn cán nguội ở châu Á đã kéo dài đà giảm trong tháng 10, đi theo xu hướng giảm của thép cuộn cán nóng và thép cuộn mạ kẽm.
S & P Global Platts định giá hàng tháng cho CRC SPCC dày 1 mm ở mức 605- 615 USD/tấn CFR Đông Á hôm thứ Tư, mức trung bình 610 USD/tấn CFR - giảm 10 USD/tấn so với định giá tháng Chín.
Chào giá CRC SPCC của Trung Quốc đã được nghe nói khoảng 595 USD/tấn FOB Trung Quốc để giao tháng 12, giảm khoảng 20 USD/tấn so với cuối tháng Chín. Tính theo giá CFR, một nhà máy lớn ở miền Đông Trung Quốc đã chào bán CRC SPCC với giá 630 USD/tấn CFR Việt Nam.
Các nhà máy cán lại của Việt Nam cũng đã hạ chào giá xuất khẩu CRC xuống 640-650 USD/tấn FOB Việt Nam và 650 USD/tấn CFR Malaysia cho hàng giao từ tháng 12 đến tháng 1. Mức giá chào bán cho người mua châu Âu thấp hơn khoảng 615 USD/tấn FOB Việt Nam, do sức mua yếu ở châu Âu, một thương nhân Trung Quốc cho biết.
"Nhập khẩu CRC đã tăng ở Malaysia, chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc," một nguồn tin từ nhà máy ở Malaysia cho biết thêm rằng khối lượng nhập khẩu CRC từ Ấn Độ và Australia cũng tăng lên trong tháng 10. "Thép nhập khẩu gia tăng đã gây áp lực lên giá trong nước và đe dọa thị phần nội địa của chúng tôi."
Giá CRC trong nước hiện tại ở Malaysia vào khoảng 720 USD/tấn, theo nguồn tin từ nhà máy.
HRC SAE1006, là nguyên liệu đầu vào để sản xuất CRC, tiếp tục giảm trong tháng 10. Giá CFR Đông Nam Á trung bình hàng tháng giảm 20 USD/tấn tức 3% xuống còn 567 USD/tấn từ mức 587 USD/tấn, theo dữ liệu của Platts.
HRC Châu Á vẫn nằm trong một phạm vi hẹp trong khi giá Trung Quốc đang giảm
Giá thép cuộn cán nóng châu Á phần lớn vẫn duy trì ổn định hôm thứ Tư mặc dù giá nội địa ở Trung Quốc thấp hơn, trong khi những người tham gia thị trường đang chờ đợi xu hướng giá rõ ràng hơn.
S & P Global Platts định giá HRC SS400 dày 3 mm ở mức 533 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Tư, không thay đổi so với ngày trước đó. Tính theo giá CFR Đông Nam Á, thép cuộn cùng loại được định giá giảm 2 USD/tấn so với thứ Ba xuống còn 543 USD/tấn do giá chào bán thấp hơn.
Với hầu hết các nhà máy Trung Quốc đều giữ chào giá xuất khẩu không đổi khoảng 540- 545 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400, không có chào giá mua chắc chắn nào được nói tới hôm thứ Tư.
"Có rất ít đơn đặt hàng trên thị trường những ngày này. Khách hàng không đưa ra chào giá mua nào," một nguồn tin từ nhà máy miền đông Trung Quốc cho biết. Một nhà máy khác ở miền Bắc Trung Quốc phàn nàn rằng không có yêu cầu mua nào trong tuần này.
Đối với tấm rời cùng loại, các thương nhân chào giá 545 USD/tấn và 540 USD/tấn CFR Việt Nam tương ứng để giao tháng Mười Hai và tháng Giêng. Giá chào mua là 535 USD/tấn CFR Việt Nam cho hàng giao tháng Mười Hai.
Một giao dịch cho 30.000 tấn thép cuộn SAE1006 loại làm ống thép xuất xứ mở đã được thực hiện hôm thứ Ba với giá 535 - 540 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 12. Hôm thứ Tư, giá chào mua cho thép cuộn dùng làm ống thép giao tháng 12 đã tăng lên 540 USD/tấn CFR Việt Nam và thép giao tháng 1 lên 530- 535 CFR Việt Nam, thấp hơn khoảng 5 USD/tấn so với mức giá chào bán.
Thép cuộn loại cán lại được chào giá ở mức 565 USD/tấn CFR Việt Nam để giao tháng Mười Hai-Tháng Một. Tuy nhiên, người mua không vội mua. Mức giá có thể giao dịch ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Tư.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay của HRC Q235 5,5 mm ở mức 4.080-4.100 NDT/tấn (585- 588 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế giá trị gia tăng vào thứ Tư, với mức trung bình là 4.090 NDT/tấn, giảm 55 NDT/tấn so với ngày thứ Ba. Trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, hợp đồng tháng 1 đóng cửa ở mức 3.802 NDT/tấn, giảm 42 NDT/tấn.
Giá xuất khẩu thép tấm của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 10
Giá xuất khẩu thép tấm dày của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 10, tháng thứ hai liên tiếp, do giá trong nước thấp hơn và sức mua ở nước ngoài yếu.
S & P Global Platts định giá tấm SS400 dày 12-20 mm ở mức 560 USD/tấn FOB vào thứ Tư, giảm 28 USD/tấn so với cuối tháng 9, sau khi giảm 21 USD/tấn trong tháng Chín so với cuối tháng Tám.
Hôm thứ Tư, phần lớn các nhà máy Trung Quốc chào giá 570 - 575 USD/tấn FOB Trung Quốc cho tấm SS400 dày 12-25 mm để giao tháng 1.
Một số thương nhân cho biết chào giá này là quá cao để thu hút người mua ở nước ngoài. Một thương nhân cho biết một giao dịch với giá 570- 575 USD/tấn FOB hai tuần trước cho một khối lượng nhỏ, nhưng không có giao dịch nào kể từ đó.
Một số thương nhân đưa ra giá có thể giao dịch ở mức 560 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy thép không vội vàng chốt giao dịch khi cắt giảm sản lượng thép mùa đông dự kiến sẽ bắt đầu ở miền bắc và miền đông Trung Quốc trong tháng 11, điều này sẽ giúp hỗ trợ giá.
Thép tấm cùng loại tại thị trường giao ngay tại Thượng Hải được định giá ở mức 4.200-4.320 NDT/tấn (603- 620 USD/tấn) hôm thứ Tư, giảm 50 NDT/tấn so với cuối tháng Chín.
Giá cuộn trơn Châu Á giảm do giá chào bán của Trung Quốc thấp hơn
Giá cuộn trơn châu Á giảm trong tuần tính đến thứ Tư, cùng với sự sụt giảm trong chào giá của các nhà máy Trung Quốc trong bối cảnh sự quan tâm mua yếu.
S & P Global Platts định giá cuộn trơn dạng lưới SAE1008 đường kính 6,5 mm ở mức 567 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Tư, giảm 4 USD/tấn so với tuần trước.
Tại Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6,5 mm giao ngay được định giá ở mức 4.480 NDT/tấn (643 USD/tấn), xuất xưởng bao gồm 16% thuế giá trị gia tăng, giảm 25 NDT/tấn so với tuần trước. Sự sụt giảm này trùng khớp với sự sụt giảm được nhìn thấy trên thị trường kỳ hạn trong tuần này, các thương nhân cho biết. Tuy nhiên, tâm lý chung của thị trường là lạc quan một cách thận trọng, được hỗ trợ bởi tồn kho thấp và cắt giảm sản lượng tại một số khu vực sản xuất thép quan trọng ở Trung Quốc.
Hôm thứ Tư, hợp đồng thép cây giao tháng 1 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa ở mức 4.127 NDT/tấn, giảm 45 NDT/tấn hay 1,1% so với thứ Ba.
Một số nhà máy đã hạ chào giá xuất khẩu xuống 5 USD/tấn trong tuần này, do thông tin mức chiết khấu xuất khẩu cho cuộn trơn hợp kim sẽ được nâng lên 10% từ mức 9% hiện nay bắt đầu từ ngày 1 tháng 11, S & P Global Platts đưa tin trước đó.
Một nhà máy xuất khẩu ở Đông Bắc Trung Quốc đã chào bán cuộn trơn hợp kim SAE1008 6,5 mm ở mức 570 USD/tấn FOB, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước, cho lô hàng giao tháng 1 năm 2019, một nguồn tin cho biết.
Một nhà máy khác ở miền Đông Trung Quốc chào giá 585 USD/tấn FOB, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước, cho hàng giao tháng 12, một nhà máy cho biết. Một nhà máy thứ ba ở Đông Bắc Trung Quốc, đã không chào giá cách đây một tuần, được nghe chào giá 585 USD/tấn FOB cho lô hàng tháng giao Mười Hai, nguồn tin thị trường cho biết. Hầu hết chào giá của các nhà máy là quá cao để bất kỳ giao dịch nào được thực hiện tại thời điểm này, các nguồn tin cho biết.
Các thương nhân nghe nói một số giao dịch với khối lượng nhỏ được thực hiện với giá khoảng 590 USD/tấn CFR Manila (568 USD/tấn FOB China) kể từ tuần trước, khi người bán đang bán khống với hy vọng giá sẽ giảm ở thị trường nội địa Trung Quốc vào khoảng giữa tháng 11, một người bán ở miền đông Trung Quốc nói.
Một người khác cho biết có thể thực hiện giao dịch ở quanh mức giá này, sau khi chào giá của các nhà máy giảm khoảng 5 USD/tấn. Việc bán khống hiện nay là rất mạo hiểm, vì vậy người bán có thể sẽ trì hoãn việc vận chuyển hàng của họ, nếu họ thấy rằng giá trong nước không giảm như họ mong đợi, ông nói.
Jiujiang của Hebei, một nhà sản xuất được theo dõi chặt chẽ để biết xu hướng giá cuộn trơn, đã nâng giá niêm yết trong nước hàng tuần thêm 20 NDT/tấn lên 4.320 NDT/tấn xuất xưởng hôm thứ Ba, bao gồm VAT, một nguồn tin nhà máy cho biết.
Giá thép tấm châu Á giảm trong bối cảnh giá chào bán thấp hơn, sức mua yếu
Giá thép tấm châu Á giảm trong tuần thứ tư liên tiếp trong bối cảnh giá chào bán thấp hơn và nhu cầu trì trệ. Các nhà máy và thương nhân đều hạ giá chào bán, nhưng không thu hút được sự quan tâm, vì người mua đang chờ giá giảm sâu hơn nữa.
S & P Global Platts định giá tấm Q235/SS400 dày 12-25 mm, hoặc tương đương, ở mức 570 USD/tấn CFR Đông Á hôm thứ Tư, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước.
Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã hạ giá chào bán khoảng 5- 10 USD/tấn xuống 565- 575 USD/tấn FOB Trung Quốc cho tấm SS400 dày 12-25 mm, cho các lô hàng giao tháng Mười Hai hoặc tháng 01. Tuy nhiên, hầu hết không nhận được bất kỳ giá chào mua nào chắc chắn do giá của người mua thấp hơn nhiều.
Một giao dịch cho tấm A36 được sản xuất bởi một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc đã được nghe thực hiện với giá 578 USD/tấn CFR Việt Nam vào tuần trước. Nhưng một mức giá cao như vậy không còn có thể được chấp nhận bởi người mua, một thương nhân Trung Quốc nói. Một số người mua Việt Nam chỉ chào giá mua thấp 550 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép tấm cùng loại.
Trong khi giá chào bán của người bán cho tấm A36 và Q345B/A572 dày 14-40 mm cao hơn nhiều ở mức lần lượt 573 USD/tấn và 595 USD/tấn CFR Việt Nam, cho các lô hàng giao tháng 1, các nguồn tin thị trường cho biết.
"Người mua không đưa ra bất kỳ giá chào mua nào", một nguồn tin cho biết. Thép tấm loại A36 thường cao hơn 5 USD/tấn so với tấm SS400, các nguồn tin thị trường cho biết.
"Sự quan tâm mua từ các khách hàng của chúng tôi không mạnh, đặc biệt là đối với các lô hàng giao tháng 1", một thương nhân ở Thượng Hải cho biết thêm rằng người mua Hàn Quốc không quan tâm. Trong khi ở Nam Mỹ, thị trường tràn ngập thép giá rẻ được cung cấp bởi những người bán khống.
Mặc dù nhu cầu thép tấm của Nhật Bản được nghe nói tương đối tốt hơn trong tháng này, nhưng thị trường đã được chuyển hướng, và hầu hết người bán không thể xuất hàng sang Nhật Bản, họ nói.