Nhập khẩu tấm cắt dọc đạt mức cao tại Mỹ
Sản lượng tấm cắt dọc nhập khẩu vào Mỹ trong tháng 10 đạt mức cao, cận mức kỷ lục trong một năm.
Trong tháng 10, tấm cắt nhập khẩu vào Mỹ đạt mức 173.990 tấn sau khi leo lên mức 165.056 tấn trong tháng 9 và 129.291 trong tháng 8 trong khi tháng 7 là 138.045 tấn và tháng 6 là 150.966 tấn. Nhập khẩu tấm cắt vẫn trên mức 110.000 tấn kể từ tháng 3. Sản lượng nhập khẩu tháng 11 la 169.062 tấn, tiếp tục vượt mức tháng 10.
Nhiều chuyến hàng đến vào tháng 10 và 11 được đặt mua trong tháng 7, khi thời gian giao hàng song song với giá giao trong nước do các nhà máy Mỹ nhận được nhiều đơn hàng tốt trong Qúy 4 ở vài trường hợp.
Các nhà xuất khẩu hàng đầu Mỹ tháng 10 là Hàn Quốc với 34.888 tấn, Braxin với 19.394 tấn, Thổ Nhĩ Kỳ là 15.836 tấn, Pháp với 9.712 tấn, Anh với 9.549 tấn và Đức với 9.416 tấn.
Phần lớn giá chào nhập khẩu hiện tại là 720-740 USD/tấn CIF Houston. Gía giao ngay cho thép tấm thương phẩm A36 là 800-820 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ mặc dù các giao dịch cuối năm đã được chốt ở mức thấp 760 USD/tấn. Các giao dịch khối lượng lớn hơn có giá thấp hơn nhưng không phổ biến.
Dòng chảy hàng nhập khẩu trong năm 2014 lớn do giá trong nước vẫn cao hơn giá nhập khẩu 150 USD/tấn và thời gian giao hàng tương tự. Chênh lệch giá nội địa- nhập khẩu đã giảm xuống dưới 100 USD/tấn và thời gian giao hàng trong nước cũng ngắn hơn đáng kể đối với thép sản xuất tháng 12.
Giá phế hàng tuần Thổ Nhĩ Kỳ trượt giảm nhưng phế Mỹ bình ổn- TSI
Theo các công bố giá tham khảo gần đây nhất từ TSI cho thấy, giá trung bình hàng tuần phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ giảm 1% kể từ tuần trước. Gía nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ theo ngày tuần qua giảm trong đầu tuần nhưng tăng lại vào giưã tuần. Gía tham khảo hàng tuần cho phế nội địa Mỹ không đổi.
Giá tham khảo phế khối lượng nhỏ hàng tuần nhập vào Đài Loan theo TSI không đổi trong khi nhập khẩu vào Ấn Độ giảm 2.1%.
Giá nhập khẩu phế HMS #1&2 80:20 vào Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong ngày đầu tuần nhưng tăng trở lại trong thứ 4 và chốt tại mức không đổi trong ngày cuối tuần. Gía trung bình hàng tuần cho phế nhập khẩu theo ngày giảm 3 USD/tấn còn 303 USD/tấn CFR cảng Iskenderun. Chỉ số theo ngày giảm hồi đầu tuần do vài thương nhân chốt ở mức cận 300 USD/tấn, tuy nhiên, giá đã tăng trở lại tầm mức 305 USD/tấn đối với vài lô hàng do các quan ngại về mùa đông hạn chế nguồn cung bắt đầu ảnh hưởng tới thị trường. Gía hàng tuần giảm 22 USD/tấn so với giá cách đây 4 tuần.
Tại Mỹ, giá phế vụn lỗi thời nội địa hàng tuần không đổi tại mức 330 USD/tấn giao tại Midwest Mỹ. Gía này đã giữ nguyên 4 tuần liên tiếp. Thị trường đang chờ đợi các giao dịch tháng 12 với nguồn cung giảm trong khi người mua lưu ý về sản lượng xuất khẩu giảm. Gía tham khảo giảm 7 USD/tấn so với cách đây 4 tuần.
Giá tham khảo hàng tuần phế HMS #1&2 80:20 nhập khẩu không đổi. Các nhà máy Đài Loan không vội mua hàng do họ có khối lượng hàng tồn kho lớn. Vật liệu ISRI không phải nguồn gốc Nhật Bản vẫn cạnh tranh trong khi vài nhà máy vẫn sử dụng phôi thanh Trung Quốc và nhu cầu tiêu thụ thép dài vẫn yếu. Gía tham khảo thấp hơn giá cách đây 4 tuần khoảng 8 USD/tấn.
Giá phế vụn nhập khẩu khối lượng nhỏ Ấn Độ theo tuần giảm 7 USD/tấn còn 327 USD/tấn CFR cảng Tây Ấn Độ.Các nhà quan sát thị trường cho biết giá tăng tại Thổ Nhĩ Kỳ và thời tiết xấu ở Mỹ là dấu hiệu giá đã chạm đáy. Các giá chào hiện ít và giá khác nhau trong khi người mua không vội mua hàng. Gía tham khảo giảm 31 USD/tấn so với cách đây 4 tuần.
Trung Quốc: Giá nhập khẩu ferrochrome đi ngang do thiếu giao dịch
Hôm thứ sáu, Platts định giá giao ngay cho quặng chrome (48-52% Cr) xuất xứ Nam Phi là 78-80 cents/lb và ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ Ấn Độ là 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc. Cả hai mức giá này đều không đổi trong bối cảnh thiếu các giao dịch.
Các yêu cầu cho nguyên liệu nhập khẩu tăng trong tuần trước nhưng vẫn khó để chốt được hợp đồng. Giá có thể giao dịch cho quặng chrome là 78-80 cents/lb CIF. Một số khách hàng tuần trước đã nâng giá kỳ vọng của họ lên 79 cents/lb CIF từ 78 cents/lb của tuần trước đó.
Thay vì đặt mua cố định thì giá kỳ vọng của người mua cho ferrochrome Ấn Độ là 77-80 cents/lb CIF nhưng các nguồn tin vẫn khẳng định rằng mức giá như vậy là không thể chấp nhận. “Chi phí của các nhà sản xuất Ấn Độ cao hơn so với các nhà cung cấp Nam Phi, vì vậy mức giá thấp nhất mà họ có thể chấp nhận là 82 cents/lb CIF”.
Niềm tin đã cải thiện trên thị trường ferrochrome Trung Quốc sau khi giá trong nước phục hồi. Nhưng mức giá trong nước vẫn còn thấp và giá nhập khẩu không đủ hấp dẫn người mua để họ chọn nguyên liệu nhập khẩu để thay thế ferrochrome của Trung Quốc.
Thứ Tư tuần trước, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) tăng lên 6.300-6.450 NDT/tấn (tương đương 78-79.5 cents/lb) từ 6.200-6.400 NDT/tấn của một tuần trước và đây là lần tăng giá trong nước đầu tiên kể từ tháng 07 năm ngoái.
Giá thép cây Nga tiếp tục giảm, các nhà máy dự định tăng giá tháng 1
Giá thép cây Nga khi chưa cộng thuế đã giảm 170 Rub/tấn (3 USD/tấn) trong tuần qua và 850 Rub/tấn (17 USD/tấn) so với cách đây 1 tháng.
Các nhà máy Nga giảm giá chào thép giao tháng 11 xuống mức 24.000-24.200 Rub/tấn (483-487 USD/tấn) đối với loại 12mm và 23.600-23.800 Rub/tấn (475-480 USD/tấn) với loại 14mm đã tính phí giao hàng tới Maxcova. Nếu chưa tính VAT 18% thì giá tương đương mức 20.340-20.510 Rub/tấn (410-413 USD/tấn) và 20.000-20.170 Rub/tấn (403-406 USD/tấn) CPT Maxcova. Hiện tại, giá thép được giữ nguyên đối với hàng sản xuất tháng 12.
Platts hạ giá thép cây Nga xuống mức 20.100-20.420 Rub/tấn (405-412 USD/tấn) CPT Maxcova, giảm 165 Rub/tấn (3 USD/tấn) so với giá 20.250-20.600 Rub/tấn (444-452 USD/tấn) trước đó tại mức tỷ giá ngày 24/11. Gía trị đồng dolla đã giảm mạnh hơn nữa thêm 40 USD/tấn do sự suy yếu của đồng Rub, hầu như mất 50 Rub/tấn trong ngày 28/11 từ mức 45.50 Rub/tấn cách đây 1 tuần.
Với 2 tháng sức mua nghèo nàn, các nhà máy hy vọng rằng nhu cầu tiêu thụ thép cây đã tăng lên tháng này do các khách hàng biết rằng tháng này sẽ là tháng cuối cùng giảm giá. Các nhà máy quyết định tăng giá thép cây tháng 1 với cùng lý do họ giữ giá HRC.
Vẫn còn một động lực khác hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ khởi sắc liên quan tới lạm phát tại thị trường tiền tệ. Các người tiêu thụ cuối đang mong muốn tận dụng các khoản vay vốn lãi suất thấp trước dự báo lãi suất vay vốn sẽ tăng lên.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á theo sau đà phục hồi của niken
Hôm thứ Sáu, Platts định giá CRC loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.450-2.500 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á và Đông Nam Á, tăng từ 2.350-2.450 USD/tấn CFR của một tuần trươc đó do các nhà cung cấp đã tăng chào giá vì giá niken cao hơn.
Chào giá CRC Hàn Quốc được nghe nói trong tuần trước là 2.500-2.550 USD/tấn CFR, tăng từ 2.400-2.500 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Có ít chào giá được nghe nói cho CRC Đài Loan vì các thương nhân đang đợi thông báo giá tháng 12 của các nhà máy thép không gỉ Đài Loan.
Một thương nhân ở Đài Bắc cho biết hôm thứ Sáu rằng bà đã chào giá 2.450 USD/tấn CFR vào đầu tuần trước nhưng hy vọng chào giá sẽ tăng lên 2.500 USD/tấn CFR khi các nhà máy trong nước quyết định giá mua.
Nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất của Đài Loan, Yieh United Steel Corp (Yusco), đã thông báo hồi cuối ngày thứ sáu tuần trước là sẽ tăng giá xuất khẩu tháng 01 thêm 60 USD/tấn. Nhiều người hy vọng sẽ xác nhận chào giá cho CRC Đài Loan trong tuần này, chào giá giao ngay cho CRC Đài Loan trong hai tuần trước là 2.400-2.450 USD/tấn CFR.
Tuy chào giá thép không gỉ và giá niken đã tăng nhưng khách hàng không vội mua. Một thương nhân ở Seoul cho biết khách hàng của ông chỉ quan tâm mua với giá dưỡi 2.400 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, nhiều người không còn thấy mức giá như vậy nữa.
“Bây giờ thật khó để đạt được mức giá 2.400 USD/tấn CFR. 2.500 USD/tấn CFR là có thể giao dịch. Giá thép Trung Quốc trong nước đã tăng tới mức này. CRC loại 304 2B dày 2mm tuần trước tăng cùng với giá niken.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange tăng tới mức cao của 6 tuần lên khoảng 16.500 USD/tấn trong tuần trước, trước khi giảm vào cuối tuần còn 16.300-16.325 USD/tấn hôm 27/11.
Người mua tìm cách thu gom phôi thanh CIS trước khi giá tăng
Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ và các nhà máy nước khác đang cố gắng thu mua phôi thanh CIS trước dự báo giá sẽ tăng lên một ít trong thời gian ngắn.
Trong khi đó, vài thương nhân vẫn đang thử nghiệm thị trường với giá chào giảm hồi đầu tuần này, tuy nhiên, trong ngày thứ sáu, thị trường dường như khởi sắc nhẹ do các thương nhân từ chối giảm giá và vẫn giữ giá không đổi.
Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các nhà máy đang chào bán tại mức 425 USD/tấn CFR Aliaga trong ngày thứ sáu trong khi giá chào thấp nhất cho tới nay từ một thương nhân là 410 USD/tấn CIF Aliaga hồi đầu tuần. Một thương nhân cho biết có một đơn hàng được chốt bởi một nhà máy Ukraina tại mức 405 USD/tấn CIF Aliaga cho khối lượng 10.000 tấn, tuy nhiên, giá này không có sẵn trên thị trường.
Một thương nhân khác cho biết giá chào đạt mức 430 USD/tấn CIF Aliaga với phí vận chuyển 20-22 USD/tấn từ Biển Đen đối với lô hàng giao đầu tháng 1. Các khách hàng Thổ Nhĩ kỳ đang dự thầu tại mức 410-420 USD/tấn CIF Aliaga trong ngày thứ sáu, tuy nhiên, các mức này bị các nhà cung cấp từ chối.
Trong khi hầu như các giá chào trên thị trường là cho các đơn hàng giao tháng 1 thì người mua tìm kiếm các lô hàng giao nhanh tại mức 425-430 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tâm lý thị trường vẫn bất ổn nhưng giá trong thời hạn ngắn có thể tăng nhẹ. Một nguồn tin khác vẫn không bị thuyết phục và cho rằng giá còn giảm thêm xuống mức 385-390 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong ngày thứ sáu, Platts giữ giá phôi thanh CIS không đổi tại mức 405 USD FOB Biển Đen đã gồm phí vận chuyển 20 USD/tấn từ Biển Đen.
Yusco tăng giá xuất khẩu thép cuộn không gỉ lên 60 USD/tấn
Nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất của Đài Loan, Yieh United Steel Corp (Yusco), đã tăng giá HRC và CRC không gỉ, cùng với tất cả các loại thép cuộn, để xuất khẩu tháng 01 lên thêm 60 USD/tấn.
Yusco cũng tăng giá bán tháng 12 trong nước cho HRC và CRC loại 300-series thêm 2.000 Đài tệ/tấn (65 USD/tấn), nhưng lại giữ giá các sản phẩm không gỉ loại 400-series không đổi. Yusco không tiết lộ giá xuất khẩu.
Theo đó, giá niêm yết trong nước của công ty cho HRC loại 304 dày 2mm và CRC 2B 2mm lên lần lượt 97.500 Đài tệ/tấn (3.154 USD/tấn) và 102.000 Đài tệ/tấn, theo tính toán của Platts từ những thông báo trước đó của Yusco.
Thị trường thép không gỉ đang bình ổn do nhu cầu cải thiện và giá nguyên liệu tăng.
Giá thép cuộn không gỉ ở Đông Á đã bắt đầu tăng trong hai tuần qua do giá niken cao hơn. Giá có thể giao dịch của CRC loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc tăng lên 2.450-2.500 USD/tấn CFR các cảng Đông Á và Đông Nam Á, tăng 50-100 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá OCTG của Trung Quốc suy yếu do nguyên liệu giảm
Giá xuất khẩu dành cho các sản phẩm ống thép dùng trong ngành dầu khí (OCTG) của Trung Quốc lại giảm trong tháng trước do giá nguyên liệu suy yếu hơn.
Hôm 28/11, Platts định giá BTC R3-length API J/K55 đường kính 177.8x8.05mm (7 inch, 23 lb/ft) từ các nhà máy ống đúc Trung Quốc và dây chuyền thành phẩm là 700-730 USD/tấn FOB Thiên Tân, giảm 15-20 USD/tấn so với tháng trước đó.
Nguyên nhân là do giá quặng sắt giảm và sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu do sức mua trong nước suy yếu trong khi nguồn cung lại dư thừa.
Với mùa đông đang đến, các nhà máy nhận thấy sức mua trong nước yếu hơn và đã phải thương lượng nhiều giao dịch xuất khẩu hơn để hoàn thành mục tiêu doanh số của họ và duy trì công suất sử dụng. Do vậy, các nhà xuất khẩu rất có thể sẽ hạ chào giá của họ xuống thêm nữa trong tháng 12.
Sản phẩm ống đúc của Trung Quốc mang lại lợi nhuận rất khiêm tốn bởi nguồn cung quá lớn trong khi sức mua chậm chạp, vì vậy tất cả các nhà máy ống thép đều đang tìm kiếm đơn hàng nước ngoài dẫn đến một cuộc chiến giá cả. Tình hình thị trường suy yếu sẽ tiếp diễn ít nhất là tới tận quý I năm tới.
Tại thị trường nội địa hôm thứ Sáu, giá ống đúc giao ngay 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông vẫn duy trì tại 3.600 NDT/tấn (588 USD/tấn) gồm VAT 17% ở Thượng Hải, đây là mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá vào 2008.
10 tháng đầu năm, tổng khối lượng OCTG xuất khẩu của Trung Quốc giảm 8% so với năm ngoái còn 1,62 triệu tấn, theo số liệu từ Hải quan.
Các nhà máy Nga tăng giá HRC thành công
Sau vài tuần khó khăn thương lượng giá với khách hàng, các nhà máy thép Nga đã tăng giá thép cuộn và tấm cán nóng tháng 12 thành công thêm 1.300 Rub/tấn (26 USD/tấn) chưa tính VAT.
Tuy nhiên, do đồng Rub giảm trở lại trong tuần qua nên việc lạm phát giá là không thể tránh khỏi và giá tăng là để bù lại tổn thất từ sự mất giá của đồng Rub.
Tháng 12 sẽ là tháng tăng giá thứ 3 liên tiếp, phần nào để bù đắp laị sự suy yếu của đồng Rub so với USD.
Tại thị trường Maxcova, giá thép tấm cán nóng tháng 12 đã tăng lên mức 26.750-26.800 Rub/tấn (542-543 USD/tấn) đối với loại dày 2mm và 26.130-26.200 Rub/tấn (530-531 USD/tấn) đối với loại 4mm đã tính phí giao hàng. Nếu trừ thuế thì giá sẽ còn tương đương 22.670-22.710 Rub/tấn (459-460 USD/tấn) và 22.150-22.200 Rub/tấn (449-450 USD/tấn) CPT Maxcova.
Mặc dù giá giá thép tính theo đồng Rub tăng 1.300 Rub/tấn (26 USD/tấn), tuy nhiên, do sự rớt giá liên tục của đồng Rub nên giá thép thực tế đã giảm 10 USD/tấn tính theo đồng USD so với tuần trước đó.
Platts tăng giá thép cuộn và tấm cán nóng 2-4mm Nga hàng tuần lên mức 22.180-22.700 Rub/tấn (450-460 USD/tấn) và 21.580-22.100 Rub/tấn (437-447 USD/tấn) CPT Maxcova, tăng từ mức 20.950-21.500 Rub/tấn (458-471 USD/tấn) tại mức tỷ giá ngày 21/11) và 20.350 -20.950 Rub/tấn (445-458 USD/tấn) cách đây 1 tuần. Cùng thời điểm, giá trị đồng dolla giảm 10 USD/tấn.
Nguồn cung hạn chế hỗ trợ giá thép cây miền bắc Trung Quốc
Sự thiếu hụt nguồn cung thép cây ở thị trường Bắc Kinh đã giúp hỗ trợ cho giá giao ngay hồi tuần trước, và có thể sẽ tiếp tục hậu thuẫn ít nhất là thêm một tuần nữa.
Giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt với giá không đổi hôm thứ Sáu là 2.720-2.750 NDT/tấn (443-448 USD/tấn) trọng lượng thực tế và VAT 17%. Giá di chuyển tới mức hiện nay sau khi tăng 120 NDT/tấn vào thứ Tư tuần trước.
Nguyên nhân đằng sau sự phục hồi đáng kể của giá còn nhờ Hebei Iron & Steel (Hegang), ông lớn đi đầu trên thị trường thép miền bắc, đã lên kế hoạch vận chuyển khoảng 150.000 tấn thép xây dựng tới miền đông và nam trong tháng 11. Thép sẽ được vận chuyển phần lớn là vào cuối tháng, điều này đã khiến nguồn cung hạn chế trên nhiều thị trường như Bắc Kinh trong thời gian ngắn.
Nhiều thép hơn được đưa tới những thị trường phi truyền thống đã giúp chống đỡ lại sự suy yếu về nhu cầu ở miền bắc khi mùa đông đến. Giá cao hơn nhiều ở miền đông và nam cũng đã tạo cơ hội để có lợi nhuận cao hơn.
Một nguồn tin nghe nói rằng Xuanhua Iron & Steel, một trong những công ty con của Hegang, gần như đã hoàn tất việc vận chuyển của tháng này tới miền nam, nhưng Chengde Iron & Steel vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển của mình. Do đó, nguồn cung hạn chế ở thị trường Bắc Kinh suốt tuần qua sẽ không giảm ngay lập tức và sẽ cung cấp thêm lực nâng đỡ cho thị trường giao ngay.
Tuy nhiên, nhiều nguồn tin vẫn còn quan ngại về giá giao ngay ở miền đông sẽ vẫn có khả năng giảm thêm nữa, bởi nguồn cung miền bắc gia tăng. Việc đặt hàng trong tháng 12 có thể tương tự hay thậm chí còn cao hơn so với tháng 11 vì các dự án xây dựng đang vội thi công để theo đúng tiến độ trước cuối năm.
Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc giảm sâu hơn
Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc tiếp tục xu hướng đi xuống suốt tháng 11, phản ánh đơn hàng ít hơn, một thị trường nội địa suy yếu và giá xuất khẩu CRC giảm. Hơn thế, hầu hết các nhà xuất khẩu mà Platts khảo sát đều tin là giá xuất khẩu HDG vẫn chưa chạm đáy.
Platts định giá HDG DX51D 1.0mm là 585-587 USD/tấn FOB hôm thứ Sáu, giảm 29 USD/tấn so với cuối tháng 10.
Một nhà kinh doanh ở Thượng Hải cho biết hôm thứ sáu một giao dịch đã được thực hiện với giá khoảng 587 USD/tấn FOB cho HDG DX51D 1.0mm, tuy nhiên việc thu mua ở mức giá này không sôi động lắm. “Các khách hàng đang dự đoán giá sẽ tiếp tục giảm vì vậy hầu hết hiện đang trong tâm lý chờ xem”.
Trong khi đó, một nguồn tin từ nhà máy lớn ở miền bắc vẫn chào giá cỡ 590 USD/tấn FOB nhưng có thể thương lượng giảm xuống cỡ 585 USD/tấn.
Theo các nhà xuất khẩu được Platts khảo sát, vẫn còn chào giá từ 590-595 USD/tấn FOB, nhưng các giao dịch đã trở nên rất khó khăn ở mức giá này. Nguyên nhân là do giá xuất khẩu của CRC đang giảm và thị trường HDG nội địa vẫn còn im ắng.
Trên thị trường nội địa, HDG DX51D dày 1.0mm phần lớn được giao dịch ở mức 4.020-4.200 NDT/tấn (654-683 USD/tấn) hôm thứ Sáu gồm VAT 17%, giảm 10 NDT/tấn so với cuối tháng 10.
Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết thị trường đều đồng tình rằng giá HDG không có cơ hội tăng trong thời gian còn lại của năm nay do sức mua thu hẹp vào mùa đông và thanh khoản hạn chế vào cuối năm. Mặc dù vậy, giá HDG cũng khó mà giảm mạnh do tồn kho thị trường thấp. Nên khả năng cao nhất là giá sẽ vẫn duy trì ở mức thấp hiện nay.
Giá thép hình EU chịu ảnh hưởng từ nhu cầu tiêu thụ chậm và giá phế suy yếu
Giá phế giảm cộng với sức mua yếu ớt đã bắt đầu tác động xấu tới thị trường thép hình EU trong tuần qua do giá giao dịch giảm sau nửa tháng bình ổn.
Cho tới tuần qua, các nhà máy vẫn chưa chịu ảnh hưởng từ giá phế giảm nhowfsoos lượng đơn hàng nhiều, chủ yếu là đơn hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, do nhu cầu tiêu thụ suy yếu dần trước Lễ giáng sinh nên các nhà máy đã bắt đầu cung cấp chiết khấu để tăng doanh số.
Giá giao dịch tại Pháp đối với thép hình loại 1 tuần qua là 510 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, giảm 10 Euro/tấn so với tuần trước đó trong khi một khách hàng cho biết đã nhận được giá chào từ một nhà máy Tây Ban Nha tại mức 505 Euro/tấn đã tính phí giao hàng nhưng không cần phải mua vào lúc này.
Các mức giao dịch tương tự cũng diễn ra tại các nước Benelux, khu vực mà các thương nhân xác nhận giá đạt mức 510 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, giảm từ mức 515-520 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Thị trường phế suy yếu vẫn tiếp tục bào mòn tâm lý thị trường. Platts hạ giá thép hình cỡ trung EU xuống 7.5 Euro/tấn còn 510 Euro/tấn DDP EU trong tuần qua.
Các nhà buôn phế Mỹ ghim hàng trong tháng này
Các nhà buôn phế Mỹ chuẩn bị ghìm hàng trong tháng 12 hoặc giữ lại hàng hóa để ngăn giá giảm và bổ sung hàng dữ trữ trước khả năng giá phế tăng trong tháng 1.
Giá phế đã giảm 50 USD/tấn trong tháng 10 và 11. Quan điểm nhận định về thị trường tháng 12 rất xáo trộn và không có quan điểm nào thắng thế trước tuần thu mua phế tháng 12 dự báo bắt đầu vào ngày mai.
Các nhà buôn phế tiếp tục duy trì quan điểm lạc quan về giá tháng 1 dựa trên yếu tố thời tiết lạnh thắt chặt nguồn cung. Phần lớn các nguồn itn đồng tình rằng sẽ có ít chào bán hơn trong tháng 12 so với tháng 11.
Theo ước tính thì các nhà buôn phế lớn sẽ giữ lại 10-20% khối lượng phế sẵn có. Và họ sẽ tung ra nhiều hàng hơn trong tháng tới với hy vọng sức mua tăng hỗ trợ giá phế tăng.
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ vật lộn với sức mua trì trệ
Giá thép cuộn HDG Ấn Độ tới Mỹ vẫn còn thấp trong tuần trước do sức mua trì trệ. Các giao dịch thép cuộn mềm loại thường, dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông của Ấn Độ tuần trước duy trì mức 865-880 USD/tấn CFR Mỹ, trong đó phí vận chuyển là 50-60 USD/tấn cho những lô hàng vận chuyển tháng 01.
Sức mua vẫn gần như không đáng kể vì không có đơn hàng mới nào được nghe nói tới. “Tôi không nhìn thấy bất cứ động thái tích cực nào trên thị trường xuất khẩu HDG trong 3-4 tuần qua”, đại diện một nhà máy ở Delhi nói.
Một số đại diện nhà máy cho biết họ đang tới Mỹ trong tuần này để tìm khách hàng. Họ đang tập trung vào việc giao dịch các sản phẩm khác như cuộn trơn và HRC, do nhu cầu xuất khẩu HDG trì trệ khi hầu hết các vùng đang vào mùa đông.
Trong khi đó, chào giá rẻ hơn từ Trung Quốc càng làm tăng thêm sức ép lên thị trường toàn cầu buộc chúng tôi phải duy trì giá bán”, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho biết. Chào giá của Trung Quốc cho HDG dày 0.3mm phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông được nghe nói khoảng 810 USD/tấn CFR west coast Mỹ.
Chào giá Trung Quốc cho HDG vẫn ở còn thấp tương tự ở thị trường Châu Âu, nghe nói chào giá 800 USD/tấn CFR Antwerp cho HDG dày 0.3mm phủ 60-120 gram kẽm trên một mét vuông.
Tương tự, chào giá Ấn Độ ở khu vực Trung Đông cho HDG dày 0.18mm phủ 80-90 gram kẽm trên một mét vuông được nghe nói là khoảng 870 USD/tấn, trong khi loại thép này từ Trung Quốc đang được chào giá cỡ 760-780 USD/tấn.