Giá CRC Mỹ tăng, HRC ổn định
Giá CRC Mỹ tăng vào hôm qua trong khi HRC vẫn tương đối ổn định.
Platts tăng giá CRC Mỹ thêm 2 USD/tấn lên 798.75 USD/tấn.
Một nhà máy Mỹ báo cáo đơn hàng CRC chốt mức 800 USD/tấn xuất xưởng hồi đầu tuần và một trung tâm dịch vụ cho biết giá chào hiện tại là 810-830 USD/tấn. Tuy nhiên, vẫn có giá chào dưới 800 USD/tấn.
Trong khi đó, giá HRC giảm 25 cents/tấn xuống 620 USD/tấn. Chào giá tầm 610-630 USD/tấn nhưng có người chào tới 640-650 USD/tấn cho thép tháng 1.
Với giá phế tăng trong tháng 12 có thể dẫn tới làn song tăng giá khác. Ít nhất, các nhà máy sẽ củng cố mức tăng 30 USD/tấn hồi đầu tháng.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ dự báo giá thép cây/phế vẫn mạnh
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã bán hết thép tháng 1 nhờ tiêu thụ nội địa mạnh và không vội xuất khẩu với dự báo giá phế và thép cây vẫn mạnh.
Giá thép cây nội địa đạt mức cao 545-550 USD/tấn xuất xưởng sau các lần tăng thành công trong mấy tuần qua trong khi phôi thanh chạm mức 510 USD/tấn xuất xưởng. Nguồn cung thép cây trong nước vẫn thiếu hụt và vài nhà máy đã ngưng chào bán.
Nhà máy Kardemir ngưng nhận đơn hàng vào hôm thứ năm sau khi đã thu được các đơn hàng 35.000 tấn.
Các nhà máy cũng tăng giá chào xuất khẩu lên mức cao 535-540 USD/tấn FOB trong mấy ngày nay với vài giao dịch khối lượng nhỏ chốt ở mức này trong tuần.
Một nhà máy cho biết đã bán ít thép tới Yemen với giá 540 USD/tấn FOB nhưng khối lượng lớn chỉ 530 USD/tấn FOB.
Trong khi đó, phôi thanh nhập khẩu tăng theo giá phế. Các chào giá gần đây ở mức cao 490-495 USD/tấn CIF trong khi phôi nội địa là 505-510 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ là 500 USD/tấn FOB.
Doanh số bán CRC không gỉ Nhật tăng trong tháng 10
Doanh số bán CRC không gỉ austenitic và ferritic trong tháng 10 của các trung tâm thép cuộn Nhật Bản tăng 6.1% so với cùng kỳ năm ngoái và 4.3% so với tháng 9 lên 59.852 tấn, theo JSCA cho biết.
Trong đó, doanh số bán CRC austenitic tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái và 9.9% so với tháng 9 lên 31.495 tấn trong khi CRC ferritic tăng 8.2% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm 1.4% so với tháng trước xuống 28.357 tấn.
Các quan chức JSCA chưa bàn luận gì thêm nhưng một nhà phân phối ở Tokyo cho biết các đơn hàng ferritic tăng so với cùng kỳ năm ngoái qua mỗi tháng hiện tại trong vòng hơn 3.5 năm nay.
Nhu cầu tiêu thụ thép ferritic để sản xuất các thiết bị gaii dụng nhà bếp tăng. Mức giảm hồi tháng 9 không đáng lo do doanh số bán vẫn cao.
Tồn kho CRC austenitic cuối tháng 10 đạt 57.204 tấn, giảm 7.3% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 2.5% so với cuối tháng 9. Doanh số bán CRC ferritic tăng 6.3% so với cùng kỳ năm ngoái lên 49.220 tấn.
Một nhà phân phối khác cho biết tiêu thụ thép dẹt không gỉ ở thị trường giao ngay tăng và lượng chào mua cũng tăng.
Giá hiện tại cho CRC 304 2.0mm ở Tokyo là 340.000 Yên/tấn (3.063 USD/tấn) và loại 430 là 270.000 Yên/tấn (2.411 USD/tấn), cùng ổn định so với tháng trước.
Đối với các hợp đồng tháng 10 và 11, nhà máy Nippon Steel & Sumikin Stainless đã tăng giá CRC austenitic thêm tổng cộng 25.000 Yên/tấn và 10.000 Yên/tấn cho loại ferritic.
Giá xuất khẩu OCTG Trung Quốc tiếp tục tăng vào tháng 11
Giá xuất khẩu thép ống dẫn dầu Trung Quốc (OCTG) tăng vào cuối tháng 11. Các nhà máy do dự chào xuất khẩu dựa vào các đơn hàng mạnh trong nước.
Trong ngày 30/11, giá thép ống R3-length API J/K55 kích thước 177.8x8.05mm (7 inch, 23 lb/ft) từ các nhà máy Trung Quốc ở mức 870-900 USD/tấn FOB cảng Thiên Tân, tăng 35 USD/tấn so với cuối tháng 10.
Các nhà máy đang tập trung bán vào trong nước dựa vào giá tăng và tình hình thị trường ngoài nước im ắng. Một thương nhân cho biết do sức mua trong nước tốt nên ông không chào xuất khẩu.
Vài nhà máy OCTG cho biết tiêu thụ từ các công ty dầu lớn trong nước mạnh hơn vào năm nay do Trung Quốc đang tăng cường tự chủ năng lượng. Các đơn hàng này có thể đủ cho các nhà máy thép trong 2 tháng.
Chào giá từ một nhà máy Trung Quốc tăng lên 900 USD/tấn FOB. Một nhà máy khác tăng giá thêm 250 NDT/tấn (38 USD/tấn) và do dự giảm giá. Nhà máy này sẽ còn tăng giá thêm trong ngắn hạn tới để đuổi theo giá trong nước dù người mua không chấp nhận.
Trong tháng 11, các nhà máy thép tròn đặc đã tăng giá thêm 280-300 NDT/tấn. Giá tăng cho các đơn hàng đầu tháng 12 dựa vào sự tăng mạnh của thị trường thép Trung Quốc trong nửa sau tháng 11.
Xuất khẩu thép ống dẫn dầu Trung Quốc trong 10 tháng đầu năm nay giảm 8% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 3.32 triệu tấn, theo Cục hải quan Trung Quốc. Xuất khẩu OCTG giảm 19% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 882.511 tấn trong khi ống đúc giảm 5% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 1.65 triệu tấn.
Giá phôi phiến Châu Á ổn định trong bối cảnh sức mua im ắng
Giá phôi phiến Đông Nam Á ổn định trong tháng 11 do tiêu thụ vẫn yếu và giá chào thấp từ Iran.
Platts vẫn duy trì giá phôi phiến SAE1008, SAE1006 tại mức 485-490 USD/tấn CFR, không đổi so với tháng trước.
Chào giá từ Iran ở mức 435 USD/tấn. Chi phí vận chuyển tới Đông Nam Á ở mức 30-35 USD/tán. Tuy nhiên, sức mua vẫn khan hiếm và không có giao dịch.
Giá phôi phiến ở Thái lan ở mức 485 USD/tấn CFR. Giá chào từ Braxin ở mức 490 USD/tấn CFR trong tháng.
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tăng nhẹ
Mặc dù giá thép nội địa tăng mạnh nhưng giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc chỉ tăng nhẹ vào tháng 11 do sức mua còn chậm chạp. Platts tăng giá tấm dày SS400 12-20mm Trung Quốc thêm 2.50 USD/tấn lên 540-545 USD/tấn FOB vào ngày 30/11.
Giá tại Thượng Hải tăng 230 NDT/tấn so với cuối tháng 10, đạt mức 4.250-4.270 NDT/tấn (642-646 USD/tấn). Một thương nhân cho biết các cắt giảm sản xuất ở phía bắc đã giúp giá cả tăng cao vào nửa cuối tháng 11.
Hầu hết các nhà máy xuất khẩu ngưng chào bán và cho hay sẽ trở lại vào đầu tháng tới.
Một thương nhân cho biết đang cố gắng chốt vài giao dịch ở mức 540-550 USD/tấn FOB trong tuần này, nhưng khối lượng nhỏ. Một thương nhân cho biết giao dịch nhìn chung thấp trong tuần này, chủ yếu do các nhà máy tăng giá chào bán quá nhanh.
Ngay sau khi chốt vài giao dịch ở mức 540 USD/tấn FOB, các nhà máy đã tăng mạnh giá chào lên 550 USD/tấn FOB.
Một thương nhân nói rằng các nhà máy đang tăng tốc tăng giá chào xuất khẩu dựa vào sự tăng trưởng trong nước, nhưng người mua chưa chấp nhận giá 550 USD/tấn FOB.
Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng theo giá HRC
Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng trong tháng 11 theo giá HRC. Giá chào từ Trung Quốc tăng mặc dù người mua chưa chấp nhận.
Platts tăng giá CRC SPCC 1.0mm nhập khẩu vào Đông Á thêm 2.5 USD/tấn lên 605-610 USD/tấn.
Người mua chưa chấp nhận giá tăng và sức mua còn yếu ớt. Tiêu thụ theo một thương nhân Malaysia sẽ còn suy yếu vào tháng 12 nhưng dường như sẽ cải thiện trong Q1/2018.
Giá thép dẹt tăng tại Châu Á. Tại Manila, giá chào từ Trung Quốc cho CRC ủ 1.0mm đạt 620 USD/tấn CFR giao tháng 2. Trong khi đó, giá chào cho loại full-hard 0.7mm là 595-600 USD/tấn CFR Manila.
Tại Việt Nam, người mua không quan tâm tới giá chào Trung Quốc do các nhà máy nội địa đang sản xuất đủ cho tiêu thụ trong nước, theo một thương nhân ở Hồ Chí Minh cho biết. Bên cạnh đó, CRC được nhập khẩu chỉ từ các nhà cán lại Việt Nam, và họ sẽ đòi hỏi giá cao hơn nữa.
Giá HRC Trung Quốc tăng mạnh trong tháng. Giá của Platts cho HRC SAE1006 2.0mm tăng lên 557 USD/tấn vào ngày 29/11, tăng từ mức 550 USD/tấn trong ngày 01/11. Giá CRC tăng phản ánh chi phí giá HRC tăng.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định dù giá giao kỳ hạn nội địa tăng
Giá thép giao kỳ hạn trên sàn SHFE tăng thúc đẩy các mặt hàng thép nội địa Trung Quốc tăng trưởng, ngoại trừ giá xuất khẩu HRC.
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu HRC SS400 3.0mm Trung Quốc tại mức ổn định 547 USD/tấn trong 4 ngày liên tiếp. Giá nhập khẩu vào Đông Á ở mức 556-558 USD/tấn CFR Đông Á.
Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm tăng 30 NDT/tấn lên 4.220-4.240 NDTt/ấn (638-641 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Hợp đồng HRC giao tháng 5/2017 trên sàn SHFE chốt tăng 31 NDT/tấn lên 3.968 NDT/tấn.
Nhiều nhà máy Trung Quốc vẫn giữ giá chào ổn định ở mức 560-570 USD/tấn FOB Trung Quốc cho loại SS400 trong khi số khác ngưng chào bán xuất khẩu để tập trung vào thị trường nội địa.
Tại Việt Nam, mặc dù tồn kho HRC SS400 ở mức thấp, không ai sẵn sàng mua gần đây. Cần phải có thời gian để họ chấp nhận giá chào bán cao 570-575 USD/tấn CFR Việt Nam.
Đối với loại SAE1006, các lựa chọn khác có sẵn ở mức thấp. Các nhà máy ống thép ở Việt Nam có thể mua HRC Nga ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi các nhà máy cán lại mua thép Ấn Độ với giá chào tầm 560-565 USD/tấn CFR Việt Nam.
Tồn kho thép thấp, tiêu thụ mạnh hỗ trợ triển vọng thị trường phế Mỹ tháng 12
Các nhà máy thép Mỹ đang tham gia vào thị trường phế tháng 12 với lượng tồn kho thấp và các đơn hàng thép thành phẩm cải thiện. Điều này sẽ tạo nên một tháng 12 lạc quan cho giá phế nội địa Mỹ.
Các nhà buôn phế tự tin vào khả năng phế tăng giá trong tháng 12, thường lệ như 9 trong 10 năm gần đây. Một nhà cung cấp phế cho rằng không còn nghi ngờ gì nữa về việc phế vụn sẽ bắt đầu ở điểm tăng 20 USD/tấn vì nguồn cung đang rất thấp.
Số khác cho biết đang bắt đầu đàm phán phế tháng 12 với điểm khởi đầu tăng 20 USD/tấn.
Các nhà máy thép cũng hứng thú với giá mới. Một nhà cung cấp phế cho hay một khách hàng của ông đã chấp nhận giá tăng 20 USD/tấn. Có vẻ rằng các nhà máy sẽ thu mua nhiều phế. Vài nhà máy đã bảo toàn nguồn cung phế cho mình với giá sẽ được đàm phán vào thứ ba tuần sau.
Tháng 12 là mùa cao điểm của phế Mỹ với giá cả không giảm tỏng 12 năm qua cộng với lực đẩy giá xuất khẩu phế tháng 11 tăng làm đòn bẩy cho triển vọng giá tháng 12.
Do lượng ngày làm việc sẽ giảm đi trong tháng 12 dựa vào lễ nên các thương nhân có niềm tin giá tăng cho cả tháng sau thậm chí còn không hồ hởi bán hết vào tháng này.
Giá phôi thanh Biển Đen tăng dù Thổ Nhĩ Kỳ từ chối
Giá phôi thanh Biển Đen vẫn tăng trưởng vào hôm qua sau khi Bắc Phi đặt mua các lô hàng hồi đầu tuần. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ lại do dự trả thêm cho phôi thanh CIS trong khi đang tăng thu mua phế nhập khẩu.
Chào giá tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 490 USD/tấn CIF, tương đương 470 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 12. Một nhà cán lại cho biết giá chào thậm chí đạt mức 495 USD/tấn CIF Marmara nhưng quá cao.
Ông cho biết, giá vậy không thu hút vì phôi thanh nên rẻ hơn 10 USD/tấn. Nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm trì trệ từ các thị trường xuất khẩu kìm hãm tâm lý thị trường phôi thanh CIS. Do đó, người mua ưa chuộng hàng nội địa hơn hập khẩu và các nhà máy EAF đang thu mua phế thay vì phôi thanh.
Một thương nhân nghe nói giá chào 490 USD/tấn CIF nhưng không nhận được bất cứ đơn hàng nào từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức này. Ai Cập ưa chuộng hơn với giao dịch ở mức 500-505 USD/tấn CFR từ các thương nhân.
Vài nhà máy CIS vẫn ngưng chào bán. Họ đã chào bán trước đó với mục tiêu giá là 490 USD/tấn FOB. Một nhà máy mini Ukraina vẫn đang chào bán 10.000 tấn phôi thanh tháng 12 có sẵn ở mức 480 USD/tấn FOB Mariupol. Giá chào mua đạt mức 470 USD/tấn FOB.
Một thương nhân ở Bắc Phi nhận được nhiều yêu cầu hỏi mua phôi thanh và giá chào tiếp tục tăng. Hồi đầu tuần, một giá chào từ Ukraina ở mức 495 USD/tấn CIF Algeria. Tuy nhiên, vài ngày sau đó, nhà máy này từ chối giá chào mua 500 USD/tấn CIF. Một giao dịch gần đây chốt ở mức 465 USD/tấn FOB Biển Đen cho loại 4sp với hàm lượng mangan cao.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tiếp tục tăng
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng vào hôm qua do các nhà máy Trung Quốc tăng giá chào thêm 10-20 USD/tấn và các thương nhân ngưng chào bán. Platts tăng giá chào thép cây BS500 đường kính 16-20mm Trung Quốc thêm 7 USD/tấn lên 535-537 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Các nhà máy Trung Quốc chọn cách ngưng chào bán dựa vào giá trong nước tăng trưởng. Một nhà máy ở phía đông tăng giá chào thêm 10 USD/tấn lên 595 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế giao tháng 1. Một nhà máy khác tăng giá chào thêm 20 USD/tấn lên 585 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (603 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) giao tháng 2.
Các nhà máy Trung Quốc chọn cách tăng giá hoặc ngưng chào bán dựa vào thị trường nội địa tăng trưởng. Một nhà máy phía đông tăng giá chào thêm 10 USD/tấn so với ngày trước lên 595 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế giao tháng 1. Một nhà máy đông bắc tăng giá chào bán lên 20 USD/tấn, đạt mức 585 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (tầm 603 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) giao tháng 2.
Tại Singapore, một giao dịch 5.000 tấn thép cây Ấn Độ chốt mức 529 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 2. Lô hàng này gồm cả thép cây 10-40mm, tương đương mức cạnh tranh 535 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển 20 USD/tấn.
Một nhà môi giới Singapore cho biết đây có thể là lô hàng cuối cùng đang giao đi do ông không thể mua được giá này vào hôm qua. Một nhà môi giới khác nghĩ rằng mức 530 USD/tấn CFR là giá người mua chấp nhận . Dưới bối cảnh thị trường tăng trưởng, một nhà môi giới cho biết, giá hôm nay là ưu tiên số 1, đường kính hoặc độ dài đặc biệt có sẵn mang tầm quan trọng thứ yếu.
Tại Hồng Kông, không có giá chào từ các thương nhân hoặc nhà máy. Một nhà môi giới cho biết các thương nhân không chào bán do không có nguyên liệu. Giá chào trong nước tương đối thấp, chỉ tương đương 520 USD/tấn CFR nên các nhà tiêu thụ cuối chưa sẵn sàng trả giá cao hơn.
Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tăng 150 NDT/tấn lên 4.535 NDT/tấn (687 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế.