Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 02/10/2009

1. Thị trường thép lá Bắc Âu dự kiến sẽ sớm suy yếu

Sản xuất quá công suất hiện tại đang được hạn chế do các nhà máy vẫn rất cẩn trọng để không vượt cung trên thị trường, nhưng nếu ngày càng có nhiều lò nung hoạt động trở lại trong quý 4 thì điều này có thể gây mất cân đối, đặc biệt là sức mua đang suy giảm trong 3 tuần vừa rồi – 1 thương gia Bỉ cho biết. “Các nhà sản xuất có thể cần phải giảm công suất trở lại”.
Chào giá nhập khẩu từ Trung Quốc từ €365-380/t CFR ($530-552/t) trở xuống, cho thấy rằng đợt giảm giá thứ 2 sẽ sớm xảy ra – 1 thương gia Đức cho biết. “Các nhà máy ở Bắc Âu buộc phải giảm giá, nhưng nếu họ không giảm giá trong những tuần tới, thì các nhà máy ở Ý cũng sẽ hành động theo”. Giá giảm có thể xảy ra vào trước cuối tháng 10, giá giảm theo mức giá giảm trên thị trường Anh trong cuối tháng vừa rồi.
Tuy nhiên, thị trường CRC ổn định hơn so với thị trường HRC và HDG. “Chào giá nhập khẩu HRC ngày càng ít hơn và giá nhập khẩu cũng không hấp dẫn.” - 1 thương gia Bỉ cho biết.

Giá thép lá ở Bắc Âu (không bao gồm Anh)
 
€/t (exw)
 
25 Sep
2 Oct
9 Oct*
HRC
430-450
430-450
420-450
CRC
480-510
480-510
480-510
 
 
 
*SBB forecast

 
2. Dự kiến nhu cầu và giá giảm mạnh : TSI

Nhu cầu dự kiến trên toàn cầu
©SBB 2009
% of respondents
 
Higher demand
Unchanged
Lower demand
W/C 21 Sep
22%
43%
35%
W/C 14 Sep
30%
49%
21%
Change w/w
-8%
-6%
+14%

Trong 1 cuộc khảo sát thị trường gần đây do TSI đưa ra trong tuần vừa rồi cho thấy, ngày càng có ít công ty trên toàn cầu dự kiến nhu cầu sẽ tăng trong 3 tháng tới. Và có rất ít công ty ở Mỹ và châu Âu dự kiến giá cao hơn so với mức giá thấp dự báo trước đây.
Ở Mỹ, châu Âu và châu Á, chỉ có 22% công ty dự kiến nhu cầu sẽ tăng trong 3 tháng tới, giảm từ mức 30%. Trong khi đó, có đến 35% công ty dự kiến nhu cầu sẽ giảm, tăng từ mức 21% (xem bảng). Ở Mỹ, số công ty dự kiến nhu cầu cao hơn giảm 19%, trong khi đó, có đến 58% công ty dự kiến nhu cầu giảm trong 3 tháng tới. Số công ty ở châu Âu dự kiến nhu cầu cao hơn cũng giảm còn 25% từ mức 30%.
Đối với các công ty châu Âu, có 24% công ty dự đoán giá cao hơn, giảm từ mức 40%; và có 26% công ty dự đoán giá giảm hơn. Có 36% công ty ở Mỹ dự kiến giá sẽ cao hơn, giảm mạnh từ mức 59% và có 45% công ty dự đoán giá sẽ thấp hơn. Toàn bộ, có 27% công ty dự kiến giá cao hơn trong 3 tháng tới, và có 39% công ty dự kiến giá thấp hơn.
Có 28% công ty ở Mỹ dự kiến tồn kho thấp hơn so với tuần trước, giảm từ mức 38%. Trong khi đó, có 55% công ty dự kiến tồn kho vẫn ổn định. Có 44% công ty ở châu Âu dự kiến tồn kho thấp hơn so với tuần trước, tăng từ mức 24%; nhưng chỉ có 7% dự kiến tồn kho cao hơn. Toàn bộ, có tổng số 37% công ty dự kiến tồn kho thép sẽ giảm, tăng từ mức 27%.
 
3. Giá phế liệu Nhật Bản tiếp tục có xu hướng giảm
Sự tăng giá của đồng Yên và xuất khẩu phế liệu suy yếu đã làm cho giá phế liệu của Nhật tiếp tục suy yếu.
Nhà sản xuất thép hàng đầu thị trường Tokyo Steel Manufacturing đã hạ giá mua phế liệu ¥1,000-1,500/t ($11-17/t) áp dụng từ ngày 1/10. Các nhà máy nhỏ cũng đã cắt giảm giá 3 lần trong tuần vừa rồi khoảng ¥4,000/t.
1 số nhà buôn đã chào giá phế liệu sang Hàn Quốc với giá ¥26,500/t ($295/t) fob, mặc dù sl, mặc dù số lượng xuất khẩu ít hơn 10,000 tấn. Nhưng do đồng Yên đã mạnh lên trong thời gian gần đây so với đồng đôla, nên các nhà máy nước ngoài đã giảm quan tâm đến việc mua phế liệu Nhật. “Chúng tôi không nghe thấy có bất cứ giao dịch nào được ký kết trong thời gian gần đây” – 1 nhà buôn phế liệu ở Tokyo cho biết.
Đồng Yên mạnh hơn cũng đang làm ảnh hưởng đến việc xuất khẩu thép thanh xây dựng và phôi thép của các nhà máy nhỏ, làm cho các nhà máy giảm sản xuất để xuất khẩu. Các nhà sản xuất lò nung đã bắt đầu mua phế liệu trở lại để tăng sản xuất thép nhưng họ có thể chuyển sang dùng đồng đôla thanh toán cho việc mua quặng sắt và than để đạt lợi nhuận do đồng Yên cao giá hơn.
Vì kết quả này, thị trường phế liệu nội địa vẫn suy yếu trong thời điểm này.
Mức giá mới loại H2 của Tokyo Steel ở nhà máy Okayama giao hàng bằng đường biển và nhà máy Utsunomiya là ¥27,000/t và ¥26,000/t, giảm ¥1,500/t. Giá H2 ở Okayama giao hàng bằng xe tải, cùng với giá ở nhà máy Kyushu và Takamatsu giảm ¥1,000/t còn lần lượt là ¥27,000/t, ¥26,500/t và ¥26,000/t.
Các nhà buôn phế liệu thuộc Tổ chức Kansai Tetsugen – Osaka sẽ đấu giá phế liệu H2 để xuất khẩu vào ngày 2/10. Giá mua có thể thấp hơn nhiều.
 
4. Nhu cầu phục hồi có thể gây thiếu cung - Usiminas
Khả năng phục hồi hiện tại đối với nhu cầu thép có thể dẫn đến thiếu cung đối với 1 số sản phẩm trong năm 2010 – theo như Marco Antônio Castello Branco, chủ tịch nhà sản xuất thép thanh Usiminas – Brazil cho biết.
Ông giải thích rằng, 1 khi nhu đã đã phục hồi và bắt đầu phát triển, việc hủy bỏ hay hoãn lại các dự án mở rộng có thể gây ra thiếu cung trên thị trường. Ở Brazil, công ty đã thông báo thiếu phôi thép trên thị trường nội địa, và tình hình sẽ bình thường trở lại vào đầu tháng 10.
Liên quan đến việc giá thép thanh tăng, Castello Branco cho biết rằng, công ty gần như cắt giảm chiết khấu. Các công ty sản xuất thép nội địa đã chiết khấu kể từ tháng 11/2008, và hiện tại nhu cầu đang trở lại.
Việc tăng giá mới có thể sẽ xảy ra, đặc biệt là đối với thép tấm.
 
5. Thị trường xuất khẩu phôi thép CIS vẫn ổn định, nhu cầu vẫn ở mức thấp

Giá xuất khẩu phôi thép CIS
©SBB 2009
 
14 Sep 09
21 Sep 09
28 Sep 09
5 Oct 09*
12 Oct 09*
FOB $/t
 430 - 450 
 430 - 450 
 420 - 450 
 420 - 440 
 420 - 440 

Thị trường xuất khẩu phôi thép CIS vẫn ổn định, giá giảm nhẹ do nhu cầu vẫn ở mức thấp.
Mặc dù vẫn hi vọng rằng vào cuối kỳ nghỉ lễ hồi giáo Muslim sẽ làm sôi nổi và gia tăng các hoạt động trên thị trường, nhưng thị trường vẫn yên ắng. Kỳ nghỉ lễ Quốc khánh hiện tại ở Trung Quốc có ảnh hưởng xấu đến thị trường, vì hầu như không có giao dịch nào diễn ra, trong khi đó lại không có dấu hiệu nào cho thấy hướng đi của thị trường.
Giá chào hàng vẫn ổn định so với mức tuần trước là $430-450/t fob từ Biển Đen đối với nguyên liệu Ukraina và Nga, nhưng vẫn lo ngại rằng giá sẽ giảm hơn nữa. Những luồng thông tin trái ngược nhau từ Nga liên quan đến giá phế liệu ở Nga, cùng với giá phế liệu nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu hơn ($295/t cfr sang Thổ Nhĩ Kỳ) cũng đang ảnh hưởng đến thị trường hơn nữa.
Hiện tại, dường như cung đang cao hơn cầu, nhưng “điều này không có gì là ngạc nhiên do nhu cầu đang ngày càng yếu hơn” – 1 nhà buôn cho biết. Hầu hết chào giá thép thanh xây dựng ở mức thấp trong thời gian gần đây của các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đang làm ảnh hưởng xấu đến tình hình này hơn nữa.
 
6. Giá các sản phẩm thép cuộn giảm hơn các sản phẩm thép dài - WSR
Thị trường Trung Quốc yếu hơn, nhu cầu yếu và tồn kho cao đều đang có ảnh hưởng xấu đến giá thép cuộn hơn là giá phôi thép và các sản phẩm thép dài.
Đối với xuất khẩu phôi thép của CIS, nhu cầu đang tăng từ châu Á (Đài Loan, Thái Lan và Philippines), Bắc Mỹ (Ai Cập và Morocco) và Thổ Nhĩ Kỳ. Các thương gia và các nhà sản xuất cho biết tình hình ở châu Âu khá ổn định. 1 số nhà máy ở Mỹ thậm chí đang chào giá phôi thép xuất khẩu $430-450/t fob.
Giá phôi thép Đông Nam Á khoảng $490-00/t cfr, nhưng vẫn chịu nhiều sức ép, có lẽ điều này phản ánh giá phế liệu đang giảm nhẹ. Bên cạnh, thị trường thép thanh xây dựng vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi sau khi cuối kỳ nghỉ lễ tôn giáo - tháng chay Ramadan.
Ngược lại, giá HRC đang dần dần chịu nhiều sức ép hơn. Ảnh hưởng trực tiếp từ việc sản xuất quá công suất của Trung Quốc mạnh nhất là ở Đông Á do cước tàu từ Trung Quốc sang khu vực này vẫn ở mức thấp. Và chào hàng HRC cũng vào thị trường châu Âu với mức chênh lệch €20-30/t.
Ấn Độ cũng đang trở thành nhà nhập khẩu lớn đối với HRC Trung Quốc từ giữa tháng 9, các khách hàng Ấn Độ ước tính có gần 2/3 các hợp đồng xuất khẩu HRC trong tháng 9 – 1 nhà buôn địa phương cho biết.
 
7. Thị trường HRC Mỹ nhận được chào hàng từ Trung Quốc, Mexico
Thị trường Mỹ đang nhận được chào hàng từ Trung Quốc với mức giá HRC thấp, nhưng triển vọng giảm giá HRC từ Mexico có thể ảnh hưởng trực tiếp hơn nữa đối với việc định giá HRC nội địa.
Ahmsa – Mexico đang chào giá vào thị trường Mỹ khoảng $500/tấn non FOB trở lên (1 tấn non = 907kg). Trong khi đó, chào hàng HRC từ Trung Quốc là $455/tấn non FOB.
Cộng thêm cước tàu, thép cuộn $500/tấn non từ Mexico sẽ tăng lên khoảng $550/tấn non, giao hàng sang miền Trung Tây nước Mỹ. Trong khi đó, thép cuộn Trung Quốc tăng lên ít nhất là $530/tấn non.
1 nhà phân phối ở miền Nam cho biết giao hàng xuất khẩu của Ahmsa rất hạn chế. 1 nhà buôn khác trong khu vực này cùng đồng tình như vậy, và cho biết rằng nhà máy chỉ có thể tăng lên đến 10,000 tấn non HRC để xuất khẩu sang Mỹ. Mặc dù chào giá HRC sẽ không đủ ảnh hưởng đến giá HRC phổ biến trên thị trường, nhưng hiện tại mức giá khoảng $570-580/tấn non.
1 nhà buôn ở miền Đông cho biết rằng thép cuộn Mexico đã được chiết khấu chỉ hấp dẫn các khách hàng ở biên giới. Đối với thép cuộn Trung Quốc, anh ta tin rằng giá không đủ thấp để đáp ứng nhu cầu của khách hàng Mỹ.
Vào thời điểm này, giá FOB trên thị trường nội địa có thể thấp hơn so với giá nhập khẩu.
 
8. Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ thay đổi mức thuế nhập khẩu khi các nhà máy tăng công suất
Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ thay đổi mức thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thép thanh cuộn khi nhà máy đạt được khả năng tự cung cấp lớn hơn khi các nhà máy thép thanh mới tăng công suất – 1 lãnh đạo ngành cho biết.
Theo báo cáo, Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thép thanh HR và CR 4% vào ngày 18/9. Thuế nhập khẩu các sản phẩm HR hiện tại là 9%, và CR là 10%. Thuế nhập khẩu các sản phẩm thép mạ màu vẫn không thay đổi, ở mức 15%.
Kerim Dervisoglu – chủ tịch của Tập đoàn đầu tư Kibar Holding và cũng là nhà sáng lập của Erdemir cho biết, Thổ Nhĩ Kỳ đã sản xuất 4,541,000 tấn thép thanh trong năm 2008 đã không đáp ứng đủ mức tiêu thụ 10,433,000 tấn.
Sản xuất thép thô toàn thế giới đạt 1,327 triệu tấn, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ sản xuất 15-16 triệu tấn hay chỉ chiếm 1.18% trong tổng số. Con số này thấp hơn nhiều so với mức sản xuất nhà máy thép tư nhân.
 
9. Marghera – Ý tăng nhập khẩu, nhưng giao dịch vẫn thấp
Các sản phẩm thép nhập khẩu đến cảng Marghera, Bắc Ý đã tăng trở lại so với mức trước mùa hè, đạt 57,000 tấn trong tháng 9. Con số này cũng tăng lên so với mức nhập khẩu bằng đường biển thấp trong tháng 8.
Ý vẫn không nhập khẩu nguyên liệu nhiều do đơn đặt hàng giảm. Điều này là do giảm đơn đặt hàng trong mùa hè.
Trong tháng 9, Marghera chỉ nhận được 22,118 tấn thép cuộn, 2,132 tấn thép tấm, 11,479 tấn thép thanh, 957 tấn thép ống và 2,956 tấn thép thanh xây dựng. Cảng này cũng đã nhận được 17,420 tấn gang.
Nhập khẩu bằng đường biển trong tháng 10 dự kiến sẽ bằng mức tháng 9 do  nhu cầu thực tế vẫn chưa phục hồi.
Trong tháng 9, Marghera không nhập khẩu phế liệu hợp kim.
 
10. Các sản phẩm thép dài nhập khẩu vẫn không hấp dẫn đối với thị trường Nam Âu

Giá nhập khẩu ở Nam Âu
Các cảng Nam châu Âu (CIF) €/t
©SBB 2009
 
Jul 09
Aug 09
Sep 09
Oct 09*
 
Medium sections
 450 - 500 
 450 - 500 
 450 - 500 
 450 - 500 
 
Merchant bar
 400 - 450 
 400 - 450 
 400 - 450 
 400 - 450 
 
Rebar
 300 - 400 
 330 - 400 
 330 - 400 
 330 - 400 
 
Wire rod (mesh quality)
 300 - 400 
 330 - 400 
 330 - 400 
 330 - 400 
 

Nguyên liệu nhập khẩu tiếp tục thiếu hấp dẫn ở thị trường thép dài Nam Âu do nhu cầu hầu như vẫn suy yếu, và khoảng cách giữa giá nội địa và giá nhập khẩu vẫn không chênh lệch nhiều.
Chào hàng từ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn rất ít và giá cao ở khu vực Nam Âu.
Giá thép thanh xây dựng và thép dây xây dựng chất lượng cao đạt €330-400/t cif ($479-581/t) và thép thanh cơ khí vẫn €400-450/t cif, trong khi thép hình trung là €450-500/t cif.
 
11. Chỉ số giá thép thanh xây dựng Tây Ban Nha vẫn không thay đổi

Chỉ số giá thép thanh xây dựng : Tây Ban Nha
 
Index 2003=100. Nguồn: Anifer
 
1 Aug 2009
1 Sept 2009
1 Oct 2009
Rebar
129.92
136.04
139.10

Giá thép thanh xây dựng đã giảm nhẹ ở Tây Ban Nha mặc dù việc tăng giá của các nhà máy trong thời gian gần đây đã không được thị trường chấp nhận – theo dữ liệu từ Hiệp hội thép thanh quốc gia Tây Ban Nha Anifer.
Chỉ số giá dựa trên thang điểm 100 trong năm 2003, đứng ở mức 139.10 vào ngày 1/10, tăng 20% so với chỉ số tháng trước.
Việc tăng giá đã được thông báo vào mỗi tháng, tuy nhiên, chưa bao giờ trở thành hiện thực do thiếu nhu cầu – 1 thành viên của Anifer cho biết.
Giá thép thanh xây dựng đã tăng hơn 2% trong tháng 9, tuy nhiên, do tiêu thụ giảm sau khi ở mức “cao điểm trong mùa hè”, nên giá đã trở lại mức cao hơn hay thấp hơn trong cuối tháng 8.
 
12. Nhu cầu cao hơn làm tăng sản lượng ở nhà sản xuất quặng sắt Bosnian
Nhà sản xuất quặng sắt Bosnian - ArcelorMittal Prijedor đã tăng sản lượng trong tháng 9 do nhu cầu quặng sắt tăng đáng kể - theo như công ty đã xác nhận.
Tổng sản lượng quặng sắt của công ty đạt 145,000 tấn trong tháng vừa rồi. Tổng doanh số bán quặng sắt trong tháng ước tính lên đến 150,000 tấn do Prijedor đã xoay sở để giảm tồn kho.
Hiện tại, nhà sản xuất quặng sắt này dự kiến sản xuất sẽ đạt 1 triệu tấn trong năm 2009, giảm nhẹ so với mức 1.2 triệu tấn trong năm 2008.
Phần lớn quặng sắt của công ty được cung cấp cho nhà sản xuất thép Bosnian -ArcelorMittal Zenica, cũng như các nhà máy thép của Tập đoàn ở Cộng hòa Czech và Ba Lan. Gần đây, công ty cũng đã bắt đầu giao hàng quặng sắt sang Romania. Tuy nhiên, công ty đã gặp nhiều khó khăn do chi phí vận chuyển cao khi sử dụng mạng lưới đường sắt Croatia.
Sản xuất mới của công ty ở Pit Buvac với số vốn đầu tư €30 triệu ($43.6 triệu) dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 12, trễ hơn so với dự kiến ban đầu.

13. Nhập khẩu của châu Âu đạt mức thấp trong 7 năm

Mua bán các sản phẩm thép của châu Âu từ tháng 1-6
 
Nghìn tấn. Nguồn: ISSB.
 
2009
2008
%
change
Xuất khẩu
 
 
 
Bán thành phẩm
1,313
2,175
-40
Các sản phẩm thép dài
4,858
4,672
+4
Các sản phẩm thép thanh
6,127
8,229
-26
Thép ống
2,026
2,608
-22
Tổng
14,324
17,685
-19
Nhập khẩu
 
 
 
Bán thành phẩm
2,882
4,698
-39
Các sản phẩm thép dài
1,878
3,990
-53
Các sản phẩm thép thanh
5,330
9,557
-44
Thép ống
852
1,938
-56
Tổng
10,942
20,183
-46

Từ tháng 1-6/2009, Liên đoàn châu Âu – EU (gồm 27 quốc gia) đã nhập khẩu 10.9 triệu tấn các sản phẩm thép (bán thành phẩm, các sản phẩm thép dài và thép thanh, thép ống) từ các quốc gia ngoài châu Âu, giảm 46% so với cùng kỳ 2008. Xuất khẩu từ 27 quốc gia EU đạt 14.3 triệu tấn, giảm 19% so với cùng kỳ 2008.
Vì vậy, trong 6 tháng đầu năm 2009, 27 quốc gia EU đạt thặng dư xuất khẩu 3.4 triệu tấn, ngược lại với thặng dư nhập khẩu 2.5 triệu tấn trong năm 2008. Cả tháng 5 và tháng 6/2009, nhập khẩu của 27 quốc gia EU giảm 1.5 triệu tấn, mức thấp nhất trong mức tổng hàng tháng.
Ngoài tổng số 10.9 triệu tấn đã nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2009, có 4.6 triệu tấn nhập khẩu từ CIS, giảm 39% so với cùng kỳ 2008. Từ tháng 1-6 EU đã nhập khẩu 2.8 triệu tấn từ châu Á, giảm 49% so với cùng kỳ 2008, bao gồm hàng nhập khẩu từ Trung Quốc giảm 62%; và nhập khẩu của 27 quốc gia EU từ Thổ Nhĩ Kỳ giảm by 38%.
Trong khi đó, xuất khẩu của 27 quốc gia EU sang các khu vực khác giảm; xuất khẩu sang châu Phi đạt 4.2 triệu tấn, tăng 52% so với cùng kỳ 2008. Algeria đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của EU với 2.5 triệu tấn và Ai Cập cũng tăng đáng kể. Xuất khẩu sang các quốc gia ngoài châu Âu đạt 3.5 triệu tấn, giảm 34%; bao gồm giảm 43% khi xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ.

 
14. Belon – Nga đã tăng giá than cốc 62%
Belon - Nhà sản xuất than và khai mỏ lớn ở Nga, đã nâng giá than đối với các hợp đồng trong 4 tháng tới lên 3,000-3,100 roubles/t ($99-103/t) FCA từ Kuzbass, tăng 62% - theo thông báo của công ty.
Trong khi đó, Magnitogorsk Iron & Steel works (MMK) – sở hữu 41% cổ phần của Belon, đã nộp đơn đến Trung tâm chống độc quyền của Liên bang Nga (FAS) để tăng cổ phần lên 80% - theo như Tờ Vedomosti đã đưa tin, trích lời chủ tịch FAS Alexey Ulyanov. MMK đã không đạt được yêu cầu này vào thời điểm này.
Trong năm 2008, MMK đã thanh toán $230.4 triệu đối với 50% cổ phần ở Onarbay Enterprises, và sở hữu 82.6% cổ phần của Belon, như đã đưa tin trước đây. Ngày hôm nay, với tỉ lệ cổ phần đó, theo sàn giao dịch chứng khoán Nga, sẽ trị giá khoảng $330 triệu.
Belon đã sản xuất 5.52 triệu tấn than cốc trong năm 2008.
 
15. Giá thép không gỉ không thể tăng trước năm 2010
Các nhà máy Bắc Mỹ không chắc chắn đảm bảo về việc tăng giá thép không gỉ trước cuối năm 2009 nếu nhu cầu vẫn không tăng.
1 số nhà máy lớn ở Bắc Mỹ đã không thành công trong việc hỏi về mức giá tăng của các nhà phân phối trong đầu tháng này. Việc tăng giá này có thể sẽ diễn ra tương tự với mức tăng trong 6 tháng đầu năm như đã được thông báo trong năm 2009, bao gồm mức tổng chiết khấu 2% từ người mua.
 
16. Sản xuất ở Mỹ tăng trong 2 tháng liên tục

ISM Manufacturing Survey
 
September 2009
 
August
September
Change
PMI
52.9
52.6
-0.3
New orders
64.9
60.8
-4.1
Production
61.9
55.7
-6.2
Inventory
34.4
42.5
+8.1
Customer inventory
39.0
39.0
 
Prices
65.0
63.5
-1.5
Backlog
52.5
53.5
+1.0
Exports
55.5
55.0
-0.5
Imports
49.5
52.0
+2.5

Hoạt động kinh tế trong lĩnh vực sản xuất ở Mỹ đã mở rộng trong 2 tháng liên tục; tuy nhiên, mức phát triển vẫn thấp hơn nhẹ so với tháng trước – theo 1 cuộc khảo sát được tiến hành bởi Viện Quản lý mức cung ISM).

 
17. Usiminas dự kiến giá thép tấm tăng hơn nữa ở Brazil
Tập đoàn sản xuất thép Usiminas - Brazil đang dự kiến nâng giá thép tấm trên thị trường nội địa.
Tính đến thời điểm này, các nhà sản xuất thép đã thông báo ngưng chiết khấu đang làm cho giá giao dịch cao hơn trong tháng 10. Tuy nhiên, nhu cầu thép tấm tăng đã làm cho công ty tăng giá nhanh hơn nữa.
Giá hiện tại khoảng R$2,000/t (US$1,131/t), bao gồm các khoản thuế chính, và mức giá khoảng R$2,250-2,350/t bao gồm giao hàng. Tuy nhiên, nếu đợt nâng giá mới này thành công, thì giá thép tấm có thể đạt trên R$2,500/t del trong tháng 10. Lần thay đổi giá gần đây là vào tháng 8, khi đó Usiminas đã tăng giá lên khoảng 10%.
Giá thép tấm giảm hơn so với giá các sản phẩm thép thanh khác trong đợt khủng hoảng tài chính toàn cầu mà đã bắt đầu vào năm 2008, và nhu cầu từ các lĩnh vực tiêu thụ trọng yếu như: thép ống bán kính lớn, xe hơi, dầu và khí đốt có thể sẽ góp phần làm tăng giá của Usiminas trong cuối năm 2009.
Tương tự, Usiminas cũng có thể thiếu các sản phẩm thép thanh để giao hàng trong năm 2010.
 
18. Thị trường đang đợi mức giá mới của ArcelorMittal ở Brazil
ArcelorMittal có thể tăng giá các sản phẩm thép thanh – HRC và CRC chỉ 6-7%. Tuy nhiên, công ty đang cố gắng tăng giá thép thanh khoảng 10% - theo như truyền thông địa phương đã đưa tin.
Việc tăng giá này chủ yếu là do sau khi tăng giá vào tháng 7-8, giá HRC và CRC của cả Usiminas và CSN đã hoàn toàn tương đương ở São Paulo với giá khoảng R$1,750/t (US$984/t) bao gồm giao hàng đối với HRC và R$1,900/t bao gồm giao hàng đối với CRC, đã bao gồm thuế. Giá của ArcelorMittal vẫn là cao nhất trước khi nâng giá, chủ yếu là do cước phí vận chuyển cao.
ArcelorMittal là nhà máy thép lá cuối cùng ở Brazil thông báo nâng giá. Giá trong quý 2 của Usiminas là thấp nhất trong số 3 nhà sản xuất thép thanh lớn ở Brazil, và đã tăng giá đầu tiên. Sau đó CSN đã thông báo nâng giá 10-13%, nhưng đã điều chỉnh từ mức khoảng 8-9%.

 
19. Hadisolb – Ai Cập báo cáo lợi nhuận giảm
 Egyptian Iron & Steel (Hadisolb) đã báo cáo lợi nhuận thuần đạt EGP 177 triệu ($32.5 triệu) trong thời gian từ 7/2008-6/2009. Theo như báo cáo của công ty đưa ra trên sàn giao dịch chứng khoán Ai Cập, lợi nhuận thuần của công ty đạt EGP 355 triệu ($65.2 triệu) trong cùng kỳ năm trước.
Lợi nhuận thuần của Hadisolb từ tháng 3/2008-3/2009 đạt EGP 8.6 triệu ($1.57 triệu). Công ty đã xoay sở để tăng lợi nhuận trong tháng 4-6/2009 lên EGP 168 triệu ($30.9 triệu).
Hadisolb là 1 công ty quốc doanh, với các sản phẩm chính là: gang, các sản phẩm thép bán thành phẩm, HRC và CRC, thép góc, thép rãnh, thép thanh xây dựng và thép hình.
 
20. Giá HRC nội địa Hàn Quốc giảm nhẹ
Giá HRC nội địa Hàn Quốc do các nhà phân phối địa phương báo giá đã giảm KRW 10-20,000/t ($8-17/t) còn KRW 770-780,000/t ($650-658/t) so với cách đây 1 tuần. Giá của các nhà phân phối giảm là do nhu cầu nội địa giảm và giá nhập khẩu giảm, chủ yếu là từ Trung Quốc.
Giá nội địa HRC đã tăng mạnh từ tháng 6-8 do thắt chặt cung cấp từ 2 nhà sản xuất chính của Hàn Quốc - Posco và Hyundai Steel. Vì vậy, Hyundai đã nâng giá niêm yết loại HRC (dày 4.5mm) thương mại KRW 40,000/t lên KRW 740,000/t ($625/t) so với tháng 9. Posco vẫn giữ nguyên giá KRW 680,000/t nhưng giá của các nhà phân phối đã tăng mạnh lên mức gần giá thị trường trong 3 tháng qua.
Việc thắt chặt cung cấp HRC trên thị trường nội địa Hàn Quốc đã giảm từ tháng 7 do Dongbu Steel – nhà sản xuất HRC lớn thứ 3 ở Hàn Quốc đã giảm giá HRC.
Tồn kho HRC trong tháng 8 cũng tăng nhẹ lên 156,400 tấn so với mức 149,100 tấn trong tháng 7 – theo báo cáo của Hiệp hội sắt thép Hàn Quốc. Tồn kho không thay đổi hay thậm chí tăng hơn nữa trong tháng này tùy thuộc vào nhu cầu nội địa sau ngày lễ Chuseok – Rằm trung thu của Hàn Quốc, bắt đầu từ ngày hôm nay.
 
21. Các nhà máy nhỏ Nhật Bản vẫn giữ nguyên giá thép thanh xây dựng trong tháng 10
Kyoei Steel, nhà sản xuất thép thanh xây dựng lớn nhất Nhật Bản – đã quyết định giữ nguyên giá thép thanh xây dựng ở nhà máy Nagoya, Yamaguchi và Hirakata ở Osaka đối với các hợp đồng tháng 10. Kyoei đã nâng giá thép thanh xây dựng ¥5,000/t ($56/t) trong tháng 8 và tháng 9, chủ yếu là do giá nhiên liệu và phế liệu cao hơn.
Kyoei không công bố mức giá nhưng SBB đã thông báo giá thép thanh xây dựng 13mm ở nhà máy Hirakata vẫn ở mức ¥62,000/t ($689/t).
Tokyo Steel Manufacturing vẫn giữ giá tháng 10 là ¥55,000/t ($610/t) đối với thép thanh xây dựng 16-25mm và ¥56,000/t loại 13mm.
 
22. Tang Eng cắt giảm giá xuất khẩu thép không gỉ tháng 10 thêm $300/t
Nhà sản xuất thép không gỉ lớn thứ 2 ở Đài Loan, Tang Eng Iron Works, đã cắt giảm giá xuất khẩu $300/t trong tháng 10 do nhu cầu yếu và do giá niken giảm.
Tang Eng cũng đã giảm giá niêm yết giao hàng nội địa đối với các sản phẩm TWD 3,000/t ($93/t) trong tháng này. Việc điều chỉnh giá này sẽ tạo ra mức giá niêm yết giao hàng nội địa của Tang Eng loại HRC 304 và CRC 304 2B lần lượt là TWD 94,500/t ($2,942/t) và TWD 98,500/t ($3,067/t).

23. Nhu cầu thép ở Thái Lan giảm từ tháng 1-8
Tiêu thụ các sản phẩm thép thành phẩm của Thái Lan trong 8 tháng đầu năm 2009 giảm đến 46% còn 5.57 triệu tấn so với cùng kỳ 2008, theo báo cáo của Viện sắt thép Thái Lan Isit).
Tiêu thụ các sản phẩm thép dài giảm 51.5% còn 2.1 triệu tấn so với cùng kỳ 2008 và các các sản phẩm thép thanh giảm 42% còn  3.5 triệu tấn (xem bảng dưới).

Tiêu thụ các sản phẩm thép thành phẩm của Thái Lan
 
'000 tấn. Nguồn: Isit
 
Jan-Aug 08
Jan-Aug 09
%
change
Total Consumption
10,266
5,568
-45.8
-Production
6,185
3,906
-36.9
-Import
5,638
2,596
-54.0
-Export
1,556
934
-40.0
Longs Consumption
4,343
2,107
-51.5
-Production
3,473
1,905
-45.1
-Import
1,330
594
-55.3
-Export
461
392
-14.9
Flats Consumption
5,924
3,460
-41.6
-Production
2,712
2,000
-26.2
-Import
4,307
2,001
-53.5
-Export
1,096
541
-50.6