Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 02/11/2015

Nhu cầu tiêu thụ thép yếu ớt cộng thanh khoản thắt chặt kìm hãm nhu cầu tiêu thụ thép

Gía phôi thanh rơi tự do và thanh khoản thắt chặt từ các ngân hàng đã giảm tiêu thụ quặng của Trung Quốc tại cảng và cả nhập khẩu trong tuần qua.

Platts giảm giá quặng IODEX 62% sắt xuống 1.85 USD/tấn so với tuần trước, còn 49.90 USD/tấn CFR Trung Quốc với giá giao ngay dưới mức 50 USD/tấn trong 3 ngày. Gía phôi thanh vẫn gặp áp lực tại trung tâm sản xuất ở Đường Sơn, chạm mức thấp lịch sử trước khi tăng 10 NDT/tấn, lên mức 1.620 NDT/tấn (255.14 USD/tấn).

Các nhà máy đang cố gắng nhận thư tín dụng từ ngân hàng để bảo toàn quặng. Các nhà máy thép đang giảm sản lượng sản xuất để hạn chế lỗ. Một nhà máy cỡ trung vận hành tại mức 30% công suất sau khi ngưng sản xuất ở một lò cao và có vẻ nhiều nhà máy theo. Do đó, nhu cầu tiêu thụ quặng rất trầm lắng.

Hàng tồn tại cảng vẫn đang giảm giá , mất 5 NDT/tấn mỗi ngày do hàng tồn cao. Trong khi đó, nhà khai thác khoáng sản Formento Resoures sẽ gửi lô hàng quặng đầu tiên sau lệnh cấm của Uỷ Ban cách đây 3 năm. 

Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng trở lại

Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng mạnh trở lại trong tuần qua do lo ngại về nguồn cung giảm đồng thời cũng là động thái phản ứng lại sự tăng giá của phôi thanh. Platts tăng giá phế HMS I/II lên 18 USD/tấn so với tuần trước, còn 193 USD/tấn CFR.

Phế HMS Ferrite khối lượng lớn và phế Nhật nhập khẩu vào Đông Á cũng bình ổn. Platts giữ giá phế HMS khối lượng lớn Đông Á tại mức 170-175 USD/tấn CFR, không đổi so với tuần trước đó. Tâm lý thị trường phế tiếp tục suy yếu do phôi thanh Trung Quốc giá thấp có sẵn.

Tại Nhật Bản, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing vẫn giữ giá mua phế kể từ ngày 10/10 sau khi cắt giảm giá tất cả các loại phế xuống 500 Yên/tấn (4 USD/tấn). Gía thu mua phế H2 tại các xưởng ở Utsunomiya phía Bắc Kanto đạt mức 15.500 Yên/tấn (128 USD/tấn). Các thương nhân đang thu mua phế H2 để xuất khẩu tại mức 14.000 Yên/tấn FAS vịnh Tokyo, tăng 500-1.000 Yên/tấn so với cách đó 2 tuần nhưng không đổi so với tuần trước đó.

Các nhà máy Hàn Quốc vẫn trầm lắng trong tuần qua trong bối cảnh hàng tồn kho cao. Nhà máy Dongkuk Steel Mill đã đặt mua phế H2 Nhật tại mứ 13.800 Yên/tấn FOB, giảm 700 Yên/tấn so với cách đó 1 tuần. Hyundai Steel đã không thu mua phế trong nửa tháng qua.

Giá mua phế tàu cũng giảm. Posco sẽ giảm giá xuống 10.000-15.000 Won/tấn (8.8-13 USD/tấn) tùy thuộc vào loại phế tại các cảng Gwangyang và Pohang từ ngày 2/11. Nhà máy Dongkuk Steel Mill tại Pohang và nhà máy Daehan Steel tại Busan sẽ giảm giá xuống 15.000-20.000 Won/tấn từ ngày 4/11.

Các nhà buôn phế Mỹ bám víu hy vọng bình ổn, các nhà máy hủy bỏ thu mua phế tháng 10

Trong tuần thu mua phế tháng 11, tâm lý thị trường chia rẽ bởi nhiều quan điểm khác nhau. Các nhà xuất khẩu phế hy vọng giá bình ổn sau khi bán một lô hàng tới Thổ Nhĩ Kỳ có giá 190 USD/tấn CFR HMS. Gía bán lần này đã tăng 16 USD/tấn so với cách đó 2 tuần.

Tuy nhiên, các nguồn tin khác cho rằng giá sẽ giảm trong tuần này do các nhà máy hủy đơn hàng vì tin rằng giá giảm nữa.  Các nhà máy ở Alabama, Detroit, Iowa, Kentucky, Mississippi, Pittsburgh, Texas và Virginia hủy bỏ chương trình thu mua phế tháng 10. Platts vẫn giữ giá phế vụn ở mức 175-185 USD/tấn đã tính phí giao hàng.

Trong khi đó, các nhà buôn phế ở Chicago với Pittsburg và Southeast ít tự tin hơn về khả năng giữ giá bình ổn.

Giá gang thỏi CIS vẫn chưa tăng theo giá phế

Giá gang thỏi CIS vẫn chưa tăng theo giá phế nhưng dường như người mua bắt đầu hỏi mua nhiều hơn kể từ khi phế tăng giá và nếu giá phế cứ tăng bình ổn thì giá gang thỏi sẽ nhanh chóng tăng theo.

Các thương nhân nghi ngờ khả năng giá phế bình ổn. Mùa đông tới gần là lý do duy nhất hiện tại giúp hỗ trợ giá phế nhưng không đủ sức duy trì đà tăng.

Hiện tại, giá gang thỏi CIS vẫn bình ổn so với tuần trước. Các thương nhân sẵn sàng mua với giá 163-165 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng không có đơn hàng.

Nếu các nhà máy không sẵn sàng bán tại mức 165 USD/tấn và thấp hơn thì người mua không chấp nhận bất cứ giá nào cao hơn 170 USD/tấn FOB Biển Đen. Platts đã giảm giá gang thỏi xuống còn 166-170 USD/tấn FOB Biển Đen từ mức 165-170 USD/tấn.

Giá HRC nội địa  Nga giảm theo giá xuất khẩu              

Các nhà máy HRC Nga dự định giữ nguyên giá thép trong tháng 11 nhưng thậm chí nếu phải cắt giảm thì việc đồng Rub tăng mạnh cũng đẩy chênh lệch giá nội địa-xuất khẩu tăng thêm 30 USD/tấn.

Chênh lệch giá HRC FOB Biển Đen với CPT Maxcova đã mở rộng kể từ đầu tháng 9 do giá thép nội địa tính theo dolla tăng còn giá xuất khẩu thì giảm đều đặn.

Giá HRC hiện có sẵn tại mức 27.800-27.950 (431-433 USD/tấn) đối với loại dày 2mm trong khi loại 4mm có giá 27.200 -27.300 (421-423 USD/tấn) đã tính phí giao hàng tới Maxcova. Các mức giá này cao hơn giá tháng 10 trung bình 700 Rubs/tấn (11 USD/tấn).

Platts giảm giá thép tấm và cuộn Nga 2-4mm XUỐNG 675 Rubs/tấn (10 USD/tấn) so với tuần trước còn 23.100-23.650 (358-367 USDtấn) và 22.500-23.050 (349-358 USD/tấn) CPT Maxcova.

Kể từ ngày 2/10, đồng Rub đã tăng từ 66 Rubs/USD lên 64 Rubs/USD. Điều này  dẫn tới chênh lệch giá CPT Maxcova so với FOB Biển Đen mở rộng ra 85 USD/tấn từ mức 55 USD/tấn tháng trước.

Thị trường thép cuộn Mỹ chờ đợi giá ổn định

Thị trường thép cán dẹt Mỹ cho thấy vài dấu hiệu của sự sống tuần qua nhưng giá thép vẫn đang là mối lo chính. Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức 390-410 USD/tấn và 520-540 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

Nhu cầu tiêu thụ không tốt nhưng có triển vọng tích cực. Gía sẽ tăng trở lại khi các nhà môi giới quyết định mua vào và thời gian giao hàng tăng.

Một trung tâm dịch vụ cho biết các nhà máy vẫn tuyệt vọng đơn hàng do thị trường giao ngay trì trệ. Gía các đơn hàng trên 500 tấn là 380 USD/tấn.

Giá HRC vẫn trên mức 400 USD/tấn nhưng chỉ cho thép cuộn đơn. Bên cạnh đó, không có giá dưới mức 380 USD/tấn. Thị trường thép cuộn Mỹ đang chờ xu hướng giá ổn định hơn.

Giá nhập khẩu thép cây Mỹ bình ổn

Giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 1 vào Mỹ tuần qua bình ổn do ít nhất một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ dự báo giá phục hồi vào tuần này. Gía chào nhập khẩu vẫn ở mức 340-360 USD/tấn CFR Houston.

Một thương nhân khác dự báo giá gần chạm đáy. Platts vẫn giữ giá nhập khẩu ở mức 344-366 USD/tấn CIF Houston trong thứ sáu.

Trong khi đó, theo số liệu công bố chưa hoàn chỉnh thì sản lượng thép cây nhập khẩu trong tháng 10 sẽ ở mức cao nhất kể từ tháng 3, đạt mức 228.000 tấn. Trong đó, có tới 202.933 tấn là từ Thổ Nhĩ Kỳ.

Định giá phôi thanh CIS

Platts vẫn giữ giá phôi thanh Biển Đen bình ổn tại mức 263 USD/tấn FOB Biển Đen.

Giá chào từ CIS vẫn ở mức 260-265 USD/tấn nhưng sẽ không còn giá này nữa nếu giá phế tăng lên trên 180 USD/tấn CFR. Các nhà nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ dự thầu tại mức 255 USD/tấn FOB Biển Đen.

Một thương nhân Châu Âu cho biết giá giao dịch cách đây 3 ngày là 275 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ từ một nhà máy Nga với giá dự thầu đạt mức 280 USD/tấn CFR. Một thương nhân khác cho rằng vẫn có thể mua tại mức giá 255 USD/tấn FOB từ Nga thanh toán trước 10%.

Giá chào bán từ Nga đã tăng từ 255-270 USD/tấn FOB. Theo dự báo thì giá phế tăng sẽ hỗ trợ giá phôi thanh tăng.

Phôi phiến CIS giảm do Braxin chào giá thấp

Giá xuất khẩu phôi phiến CIS giảm hơn nữa mặc dù phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng 10 USD/tấn. Vài thương nhân cho biết giá phế tăng nhưng chưa đủ bù đắp lại các lần giảm trước đó.

Dường như các nhà máy Trung Quốc không cắt giảm sản lượng. Có nhiều tin đồn xoay quanh việc sản lượng thép Trung Quốc không hề giảm dù có các biện pháp hạn chế ô nhiễm. Chính Quyền Mỹ hiện dự báo hủy bỏ hoặc giảm thuế VAT cho các nhà xuất khẩu thép.  Một khi họ làm vậy thì chi phí đầu vào sẽ tăng buộc phải có nhiều thay đổi.

Cùng thời điểm, các nhà xuất khẩu phôi phiến Braxin đang nỗ lực thúc đẩy sản lượng thép xuất khẩu. Đầu tiên, phôi thanh của họ không được ưa chuộng vì phí vận tải cao, tốn nhiều thời gian giao hàng. Tuy nhiên, hiện tại lịch sử đã sang trang. Họ không cần chào mời mà vẫn nhận được đơn hàng.

Các nhà máy phôi phiến Braxin đã bán tại mức 245 USD/tấn CFR Bắc Âu (Đức, Hà Lan), tương đương giá 230-235 USD/tấn FOB Biển Đen. Các nhà máy Ukraina chào bán tại mức 240 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi tại Nga, chi phí sản xuất thấp hơn Ukraina nên có thể bán tại mức 240 USD/tấn FOB và thậm chí có thể thấp hơn. 

Kể từ khi giá 245 USD/tấn dường như không còn nữa, Platts giảm giá phôi phiến CIS xuống còn 235-240 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 5 USD/tấn so với cách đó 1 tuần.

Giá CRC không gỉ Châu Á duy trì ổn định

 

Giá giao dịch hôm 30/10 cho CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc không đổi so với tuần trước đó và giữ ở mức 1.750-1.800 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á. Người mua vẫn quyết định giá chào mua mới của họ sau khi một số nhà cung cấp nâng chào giá nhờ sự phục hồi của giá niken.

Một thương nhân Hàn Quốc cho biết giá giao dịch đã tăng nhẹ lên khoảng 1.750-1.800 USD/tấn CFR sau khi Posco tăng giá xuất khẩu tháng 11 lên 50 USD/tấn. Nhu cầu ở Đông Á và Đông Nam Á vẫn còn yếu, cho thấy sự phục hồi không bền vững.

Một người khác xác nhận Tang Eng Iron Works cũng đã tăng giá xuất khẩu thêm 1.500 Đài tệ/tấn (46 USD/tấn) cho đơn hàng giao tháng 11, đây là lần tăng giá đầu tiên của nhà máy trong hơn 4 tháng qua nhờ giá niken cải thiện trở lại mốc trên 10.000 USD/tấn. Nhưng người mua cần thời gian để đưa ra giá cao hơn do có sự xuất hiện của chào giá Trung Quốc với tính cạnh tranh.

Chào giá mà các thương nhân Trung Quốc đang đưa ra ổn định ở mức 1.750 USD/tấn FOB, và giao dịch có thể được chốt với giá khoảng 1.730-1.740 USD/tấn FOB. Người bán có thể sẽ tập trung vào việc hoàn thành chỉ tiêu doanh số hàng năm của họ vào tháng 11, thay vì nâng giá bán. Hơn thế nữa, nguồn cung trong nước vẫn còn đủ và các nhà máy cũng chịu nhiều sức ép từ sức mua yếu.

Giá niken giao dịch trên sàn London Metal Exchange dao động từ 10.470-10.475 USD/tấn hôm 29/10, tăng khoảng 70 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá đã tăng 600 USD/tấn cách đây 1 tháng trước.

 

Phôi thanh Trung Quốc rớt giá cùng với quặng sắt

Phôi thanh xuất khẩu của Trung Quốc rớt giá trên thị trường Đông Nam Á. Một số người đang đưa ra giá thấp hơn với nỗ lực thu hút người mua và họ dự báo thị trường sẽ vẫn tiếp tục suy yếu trong bối cảnh quặng sắt sụt giảm.

Tại Manila, các giao dịch phôi thanh Q275 120mm của Trung Quốc được thực hiện trong tuần trước với giá 275 USD/tấn CFR và phôi Q235 120mm có giá 270 USD/tấn CFR, đều giao tháng 12. Chào giá tuần trước cao hơn 5 USD/tấn và những đơn hàng trước đó cho loại Q275 được thực hiện với giá lần lượt là 283 USD/tấn CFR và 285 USD/tấn CFR trong tuần ngày 12/10.

Tại Thái Lan, chào giá phôi thanh loại Q235 150mm giảm còn 260 USD/tấn CFR Ko Sichang. Nhưng một thương nhân ở đây nghĩ rằng chào giá này là từ những người bán khống vì chào giá Trung Quốc cao hơn 255 USD/tấn FOB.

Thị trường ở Việt Nam trầm lắng và không nghe nói đến giao dịch nào gần đây. Một thương nhân Trung Quốc cho biết ông nghe nói một số nhà cung cấp đang chào bán phôi thanh Q235 150mm với giá 255-258 USD/tấn CFR Phú Mỹ. Giao dịch mới đây nghe nói được thực hiện với giá 260 USD/tấn CFR trong tuần ngày 12/10.

Một thương nhân cho biết giá tuần trước suy yếu hơn và nhiều nhà máy Trung Quốc sẽ chấp nhận giá mua thấp hơn bởi vì thị trường thép ảm đạm và quặng sắt đang lao dốc. Một thương nhân ở Manila cho biết không có dấu hiệu nào cho thấy thị trường sẽ cải thiện bởi vì nguồn cung vẫn như cũ trong khi quặng sắt thì đang đi xuống.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá phôi thanh 120/130mm nhập khẩu là 265-270 USD/tấn CFR, thấp hơn mức 270-275 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 267,5 USD/tấn là thấp hơn 5 USD/tấn so với tuần trước.

 

Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng

Giá thu mua phế tàu tính theo đồng dolla của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng do phế nhập khẩu HMS I/II đã đạt mức cao 187 USD/tấn CFR.

Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy Phía Tây ( Ege Celik, Habas, IDC, Ozkanlar) tại mức 188-190 USD/tấn, cao hơn đầu tuần qua 2-6 USD/tấn.

Đà giảm giá phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đã chững lại từ tuần trước. Gía mua của các nhà máy thép EAF lớn cho phế DKP là 500-560 TRY/tấn (171-191 USD/tấn tùy thuộc vào đơn hàng và khu vực.

Vài nguồn tin dự báo giá phế nội địa và nhập khẩu còn tăng nữa trong tuần tới do nhu cầu tiêu thụ và giá thép thành phẩm phục hồi trong tháng 11. Tuy nhiên, nếu các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ không thể tăng giá xuất khẩu trong ngắn hạn thì đà phục hồi giá phế có vẻ cũng chỉ ngắn ngủi.

Định giá HRC EU

Platts vẫn giữ giá HRC Bắc Âu tại mức 330-340 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Giá nhập khẩu cũng như giá thép Nam Âu đều bình ổn trong khi giá tại Tây Bắc Âu đạt mức 330 Euro/tấn. Tuy nhiên, áp lực vẫn tồn đọng dựa vào chênh lệch giá với phía Nam mặc dù người mua do dự mua thêm do hàng tồn kho cao. Các nhà máy lớn vẫn có thể chào giá 340 Euro/tấn nhưng các nhà máy Bắc Âu nhỏ hơn chào bán tại mức 330 Euro/tấn.

Giá nhập khẩu cũng bình ổn ở mức 300 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng rất ít thu hút do các nhà môi giới chỉ giữ hàng tồn ở mức thấp hết sức có thể.   

Giá thép tấm thương phẩm nhập khẩu giảm nhẹ ở Đông Á

Giá thép tấm dày của Trung Quốc ở Đông Á giảm nhẹ trong tháng 10 so với một tháng trước đó trong bối cảnh sức mua teo tóp.

Thép tấm loại thương phẩm của Trung Quốc được chốt trong tuần trước với giá 284-285 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 12, giảm khoảng 5 USD/tấn so với giữa tháng 9. Sức mua rất yếu nhưng các nhà máy đang phản đối việc giảm chào giá.

Một vài nhà cung cấp đang chào bán thép tấm Trung Quốc với giá 280 USD/tấn CFR.

Một thương nhân khác ở Thượng Hải cho biết một vài nhà máy thép Trung Quốc mà hy vọng sẽ cải thiện kết quả kinh doanh trước cuối năm đang giảm bớt khối lượng thép tấm mà họ chào bán chỉ để biện minh cho việc nâng giá của họ. Nhưng tâm lý thị trường hiện nay không rõ ràng. Một số nhà xuất khẩu sẽ tiếp tục duy trì giá thấp vì khách hàng sẽ không dễ dàng chấp nhận những lần tăng giá như vậy.

Tuy nhiên, giá xuất khẩu của Trung Quốc tới Hàn Quốc đã cải thiện, với hầu hết đơn hàng thép tấm gần đây được ký kết với giá 290 USD/tấn CFR trong tuần trước. Mức giá đặt mua cách đây một tuần là 285-290 USD/tấn CFR, nhưng không có giao dịch nào được thực hiện dưới mốc 290 USD/tấn CFR. Khách hàng của ông bị thuyết phục rằng giá xuất khẩu của Trung Quốc đã chạm đáy và vì vậy những đơn hàng mới trở nên sôi động hơn trong suốt tuần trước.

Trong khi đó, giá hợp đồng cho thép tấm thương phẩm của Hàn Quốc sụt giảm trong tháng 10 do sức mua yếu. Thép của một nhà máy hàng đầu được bán với giá 280 USD/tấn FOB cách đây hơn 1 tuần, giảm 10-20 USD/tấn so với tháng trước đó.

Platts định giá thép tấm loại A36 dày 12-25mm hôm 30/10 là 280-305 USD/tấn CFR, so với 280-310 USD/tấn CFR của cuối tháng 9. Mức giá trung bình 292,5 USD/tấn, thấp hơn 2,5 USD/tấn so với tháng trước đó. 

Thị trường thép dẹt Thổ Nhĩ Kỳ chờ đợi thị trường ổn định

Giá thép dẹt Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 40 USD/tấn trong 2 tháng  qua do áp lực từ nhu cầu tiêu thụ yếu, giá nguyên liệu thô giảm và bất ổn chính trị-kinh tế kìm hãm giao dịch. Mặc dù vậy, giá thu mua thép và khối lượng thép sẽ phục hồi trong mấy tuần tới do hàng tồn thấp trong khi giá phế nội địa và nhập khẩu tiếp tục tăng. Kết quả bầu cử ngày 1/11 sẽ ảnh hưởng rộng rãi tới xu hướng thị trường.

Các nhà máy nội địa nhìn chung chào bán HRC tại mức 330-340 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá bán lẻ từ các nhà môi giới đạt mức 355-365 USD/tấn. Nhu cầu tiêu thụ cũng ảnh hưởng tới giá CRC nội địa với giá chào giảm xuống mức thấp 420-430 USD/tấn.

Trong khi đó, chiết khấu gần đây nhất cũng thu hút sức mua trên thị trường xuất khẩu. Họ chào bán HRC tại mức thấp 320-330 USD/tấn FOB kèm chiết khấu 10 USD/tấn có sẵn cho các đơn hàng lớn. Gía chào CRC xuất khẩu đạt mức 410-420 USD/tấn FOB.

Tuy nhiên, giá chào nhập khẩu giảm thấp tiếp tục gây áp lực cho các nhà máy nội địa và xuất khẩu. Các nhà máy CIS chào bán HRC tại mức 280-295 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi CRC đạt mức thấp 340-360 USD/tấn CFR. 

Giá thép tấm xuất khẩu Trung Quốc giảm sâu hơn vào cuối tháng 10 

Sự sụt giảm của giá thép tấm xuất khẩu Trung Quốc tiếp tục kéo dài đến hết tháng 10 do đơn hàng ít ỏi. Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 12-30mm trong khoảng 265-270 USD/tấn FOB hôm 30/10, giảm 10 USD/tấn so với cuối tháng 9.

Theo các nhà xuất khẩu, chào giá phổ biến từ các nhà máy lớn vẫn trên mức 270 USD/tấn FOB với ít sự thay đổi từ cuối tháng 9. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu thừa nhận một số giao dịch có thể đã chọc thủng mốc 270 USD/tấn FOB.

Trong khi ông có thể đảm bảo thép tấm từ một số nhà máy ở mức giá thấp 265 USD/tấn FOB, thì các nhà máy khác lại không muốn giảm giá sâu hơn nhiều và khăng khăng giữ giá thấp nhất là 270 USD/tấn FOB.

Nguồn tin từ một nhà ở miền trung trao đổi với Platts rằng nhìn chung các nhà máy hiện nay ít muốn xuất khẩu, một phần là do việc này đang khiến họ bị lỗ, ngoài ra còn do các nhà máy muốn chuyển hướng nhiều thép hơn tới thị trường nội địa, nơi việc kinh doanh ổn định hơn.

Tại thị trường Thượng Hải hôm 30/10, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến ở mức giá 1.940-1.970 NDT/tấn (307-312 USD/tấn) gồm 17% VAT, giảm 10 NDT/tấn so với cuối tháng 9.

Một thương nhân cho biết giá thép tấm trong nước thực tế khá ổn định trong hai tuần qua, nhưng nhấn mạnh rằng sự bình ổn này có lẽ chỉ là tạm thời.

Ông sợ giá sẽ bị sức ép giảm một lần nữa trong tháng này khi mùa đông có tuyết rơi làm hạn chế nhu cầu, và khi có nhiều loại thép hơn nữa trong đó có thép tấm sẽ được vận chuyển từ các nhà máy ở miền bắc vốn đang tìm kiếm người mua ở miền nam. 

HRC Châu Á ổn định mặc dù giá Trung Quốc rớt sâu 

Hôm thứ Sáu, giá HRC giao ngay tới Châu Á tiếp tục ổn định ở mức thấp kỷ lục trong ngày thứ tư liên tiếp. Tuy nhiên, giá Trung Quốc lại sụt giảm do sức mua suy yếu.

Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 262-267 USD/tấn FOB hôm thứ Sáu, bằng với ngày trước đó và dao động ở mức thấp kỷ lục kể từ khi Platts bắt đầu theo dõi thị trường này hồi tháng 01/2006.

Tại thị trường bán lẻ của Thượng Hải hôm cùng ngày, Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 1.860-1.880 NDT/tấn (294-298 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 20 NDT/tấn so với ngày trước đó sau hai ngày không đổi. Đây là mức thấp kỷ lục mới kể từ tháng 01/1997 khi Platts bắt đầu định giá.

Shagang Group ở miền đông chào giá 270 USD/tấn FOB, nhưng sẵn sàng bán với giá thấp 267 USD/tấn FOB. Anshan Iron & Steel ở đông bắc Trung Quốc vẫn đang chào giá cao 275 USD/tấn FOB mà không có giao dịch nào được ký kết. Hầu hết các nhà máy Trung Quốc chào giá khoảng 265 USD/tấn FOB, nhưng 262 USD/tấn FOB là có thể giao dịch.

“Giá xuất khẩu có thể giảm xuống sâu hơn tới khoảng 250 USD/tấn FOB Trung Quốc trong hai tháng tới. Những nhà máy mà không thể chịu nổi được khoản lỗ lớn như vậy sẽ dần đóng cửa.

Đối với thép cuộn loại cán lại, một vài giao dịch cho những lô hàng với khối lượng 17.500 tấn được sản xuất bởi một nhà máy Đài Loan được chốt ở mức 290-292 USD/tấn CFR Việt Nam tuần trước, giao tháng 11. Một giao cho các lô hàng khác được sản xuất bởi JFE Steel nghe nói được chốt ở mức 295 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, không có thêm chi tiết nào được tiết lộ.

Chào giá phổ biến cho thép cuộn SAE1006 2.0mm duy trì ổn định ở mức 270-278 USD/tấn CFR Việt Nam. Hầu hết khách hàng không mua hết khối lượng mà họ cần vì họ sợ giá sẽ tiếp tục xu hướng lao dốc. 

Các nhà máy thép cây Mỹ gặp áp lực do Thổ Nhĩ Kỳ trợ cấp thuế cho hàng nhập khẩu

Do được hưởng trợ cấp từ Chính Phủ, giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu vào Mỹ rất cạnh tranh gây tổn hại đến nền sản xuất thép nội địa Mỹ và nhiều nhà máy thép lớn buộc phải kiến nghị Chính Quyền chống bán phá giá.

Hồi giữa tháng 10 năm ngoái,  ngành công nghiệp nội địa nhận được quyết định sơ bộ từ Uỷ Ban thương mại Quốc tế. ITC đã quyết định áp thuế chống bán phá giá cho các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 1.25% để bù đắp lại khoản trợ cấp thuế  đối kháng từ Chính Phủ Thổ Nhĩ Kỳ.

Hầu hết các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chịu thuế chống bán phá giá sơ bộ 2.64% nhưng sau đó mức thuế này đã bị bỏ trong quyết định cuối cùng trong tháng 9/2014.

 

Theo số liệu thống kê của Cục hải quan cho biết, kể từ tháng 11/2014-8/2015, sản lượng nhập khẩu là 1.17 triệu tấn trong khi từ tháng 9/2015-10/2015 là 416.000 tấn. Mức xuất khẩu bình quân tới Mỹ đạt mức trung bình gần 145.000 tấn.

Giá phôi tấm nhập khẩu chững lại ở Đông Á 

Giá giao dịch của phôi tấm được nhập khẩu tới Đông Á rớt xuống thấp hơn trong tháng 10 khi các nhà cán lại đối mặt với sức ép lớn từ thép Trung Quốc và chi phí nguyên liệu thấp hơn để cạnh tranh.

Các giao dịch phôi tấm làm thép cuộn của Nga và Brazil nghe nói được chốt ở mức 265 USD/tấn CFR Indonesia hồi đầu tháng 10 và khoảng 260 USD/tấn CFR vào giữa tháng 10. Một lô phôi tấm làm thép cuộn của Brazil khối lượng 40.000 tấn giao tháng 01 được chốt ở mức 260 USD/tấn CFR.

Phôi làm thép tấm cũng được chốt ở mức giá thấp này, các giao dịch phôi làm thép tấm nghe nói được chốt ở mức 280-285 USD/tấn CFR ở Indonesia khoảng giữa tháng 9.

Nghe nói một nhà cán lại người Đài Loan đang đưa ra giá mua cho phôi cán lại ở quanh mức 230 USD/tấn CFR. Nhiều người cho biết giá mua này chủ yếu là để sản xuất HRC của công ty được bán với giá 290  USD/tấn FOB. Nhưng người này đang trong tình trạng khó khăn vì sẽ phải chật vật để có được nguồn phôi tấm ở mức giá mua này và đông thời sẽ không tìm thấy người mua HRC nào ở mức giá 290  USD/tấn FOB.

Nghe nói chào giá phôi tấm của Nga là 260 USD/tấn CFR Đài Loan hồi đầu tháng 10. Một thương nhân nghe nói cũng có chào giá 252-253 USD/tấn CFR, nhưng không thể xác nhận. Ông này có thể sẽ bán tới Đài Loan với giá thấp hơn 10 USD/tấn.   

Platts định giá phôi tấm SAE1008, SAE1006 hôm 30/10 trong khoảng 250-260 USD/tấn CFR, giảm từ 270-280 USD/tấn CFR của cuối tháng 9. Mức giá trung bình 255 USD/tấn, thấp hơn 20 USD/tấn so với tháng trước đó. 

Giá HRC Bắc Âu cận kề mức sàn

Với giá nhập khẩu và giá nội địa Nam Âu bình ổn, giá HRC Châu Âu dự báo sắp chạm sàn. Tuy nhiên, các nhà máy Bắc Âu thu hẹp biên độ giá để thu hút đơn hàng.

Thị trường nhập khẩu Bắc Âu bình ổn tại mức 290-310 Euro/tấn  CIF Antwep ( mức thấp nhất kể từ khi Platts định giá trong tháng 11/2006) nhưng các nhà máy Bắc Âu sẽ chạm mức thấp 12 năm, dưới 320 Euro/tấn kể từ tháng 4/2009 để giúp thị trường tái sinh. Trong khi đó, giá từ Trung Quốc đạt mức 255 Euro/tấn CIF.  Nhu cầu tiêu thụ tốt hơn trong tháng 10 nhưng không đủ để kéo giá. Chênh lệch giá nội địa và nhập khẩu đã giảm nhưng không mở rộng nữa.

Đồng Euro suy yếu sau khi Ngân hàng Trung Ương tung ra các biện pháp kích thích để vực dậy nền kinh tế.  Hàng nhập khẩu kém thu hút nhưng các nhà máy Bắc Âu vẫn giữ giá HRC ở mức thấp 330-340 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr và Nam Âu đạt mức thấp 290 Euro/tấn xuất xưởng. Chênh lệch giá Bắc Âu và Nam Âu vẫn rất lớn. 

Thép cây Châu Á duy trì ổn định nhờ thị trường Trung Quốc bình ổn

Giá thép cây giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì ổn định hôm thứ Sáu, không đổi trong ngày thứ 6 liên tiếp, do các nhà máy vẫn giữ chào giá.

Các nhà sản xuất Trung Quốc được cứu cánh nhờ sự phục hồi của giá trong nước gần đây khi đang chật vật để giải quyết khoản lỗ mà họ đã bị dính vào khi xuất khẩu.

Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm không đổi so với ngày trước đó và giữ ở mức 253-255 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, mức giá trung bình 254 USD/tấn FOB và ở mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá 9 năm trước.

Tại thị trường Thượng Hải, giá giao dịch cho thép cây đường kính 18-25mm được định giá cao hơn 25 NDT/tấn (4 USD/tấn) so với tuần trước còn 1.910-1.930 NDT/tấn (302-305 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng lý thuyết và gồm 17% VAT. Đằng sau sự phục hồi của giá chủ yếu là do tồn kho thị trường thấp.

Nguồn tin từ một nhà máy ở miền đông cho biết công ty ông đã quyết tâm giữ giá cao hơn một vài mốc thấp, chẳng hạn như giá thép cây tới Singapore không thấp hơn 270 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, vì không muốn bị lỗ nhiều hơn nữa. Do đó, các đơn hàng xuất khẩu của công ty đã thu hẹp lại trong hai tháng qua.

 “Tôi nghĩ cơ hội giá đi xuống là khá hạn chế”, một nhà tích trữ ở Singapore cho biết. Chào giá phổ biến là 255 USD/tấn CFR Singapore giao tháng 01.

Nhưng các thương nhân có thể chào giá giao tháng 12 trong khoảng 260-265 USD/tấn CFR Singapore. Mức giá này tương đương 253 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.