Giá thép cuộn trơn Mỹ tăng trong tháng 4
Giá thép cuộn trơn Mỹ giao tháng 4 tăng sau khi các nhà máy thông báo tăng giá. Tuy nhiên, chưa ai rõ về việc các nhà máy nội địa nộp đơn yêu cầu chống bán phá giá trong tuần qua có tác động tới giá hay không.
Bốn nhà máy Mỹ đã nộp đơn yêu cầu chống bán phá giá đối với thép dây cacbon và hợp kim nhập khẩu từ 10 quốc gia gồm có Belarus, Ý, Hàn Quốc, Nga, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, UAE và Anh. Nhà máy Gerdau Long Steel North America, Nucor, Keystone Consolidated Industries và Charter Steel cũng nộp đơn yêu cầu áp thuế đối kháng cho thép dây từ Ý và Thổ Nhĩ Kỳ.
Biên độ chống bán phá giá yêu cầu từ bên khởi kiện là 21.64%-61.64% đối với Ukraine và 216.50%-821.40% cho Nga.
Theo dự báo, hiện tại, các yêu cầu chống bán phá giá có thể sẽ hỗ trợ giá thép cuộn trơn nội địa Mỹ thậm chí giá phế giảm ít nhất 20 USD/tấn trong tháng 4. Hồi giữa tháng 3, các nhà máy thép cuộn trơn Mỹ đã thông báo nâng giá thép dây có hàm lượng cacbon thấp thêm 45 USD/tấn còn loại có cacbon cao là 60 USD/tấn giao tháng 4.
Platts tăng định giá cuộn trơn dạng lưới Mỹ lên mức 560-580 USD/tấn xuất xưởng từ mwsc 540-560 USD/tấn.
Giá nhập khẩu cạnh tranh kéo giá HRC nội địa Nga giảm
Các nhà máy thép tại Nga đã mạnh tay cắt giảm giá thép cuộn và tấm cán nóng sản xuất tháng 4 trong bối cảnh giá nhập khẩu cạnh tranh.
Thị trường thép cuộn và tấm cán nóng Nga bắt đầu thu hút hàng nhập khẩu từ Kazakhstan và Ukraine. Giá HRC nội địa tính theo CPT Moscow đã tăng một ít trong tháng 11 năm ngoái và vẫn tăng trong suốt tháng 2 và 3, thêm 25 USD/tấn lên mức 105-115 USD/tấn.
Giá thép tấm cán nóng tháng 4 được bán tại mức 39.650 Rub/tấn (704 USD/tấn) đối với loại dày 2mm và 38.940 - 39.060 Rub/tấn (691-693 USD/tấn) cho loại 4mm giao tại Moscow. Nếu không tính 18% VAT thì các mức giá này tương đương 33.600 Rubs/tấn (597 USD/tấn) và 33.000-33.100 Rubs/tấn (586-588 USD/tấn), giảm 1.950 Rubs/tấn (35 USD/tấn), tầm 5.5% so với tháng trước đó.
Platts cũng giảm định giá hàng tuần đối với thép tấm và cuộn cán nóng Nga thêm 1.900-1.950 Rubs/tấn (34 USD/tấn) so với tuần trước đó, xuống còn 33.050-33.600 Rubs/tấn (587-597 USD/tấn) và 32.450-33.000 Rubs/tấn (576-586 USD/tấn) CPT Moscow.
Tuy nhiên, giá thép tính theo đồng dolla giảm 10 USD/tấn so với tháng trước đó dựa vào sự tăng mạnh của đồng Rub so với dolla. Kết quả là, chênh lệch giá HRC CPT Moscow với FOB Biển Đen vẫn ở mức 100 USD/tấn.
Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ thử nghiệm giá chào mới nhưng không thành công
Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã thất bại với giá chào mới dù chỉ là mức tăng vừa phải trong tuần qua. Giá phế nhập khẩu tăng là động lực thúc đẩy các nhà máy tăng giá, tuy nhiên, tình hình chính trị bất ổn ngắn hạn đã không cho phép giá tăng. Mọi thứ chưa thể rõ ràng cho tới cuộc trưng cầu Hiến pháp ngày 16/4 tới.
Theo dự báo, tình hình thị trường sẽ khởi sắc cũng như đồng Lira dự báo mạnh hơn. Đối với thị trường Mỹ, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng giữ giá trên mức 500 USD/tấn CFR Houston với một đơn hàng nghe nói được chốt ở mức 510-515 USD/tấn CFR. Một thương nhân cho rằng vẫn có giá dưới 500 USD/tấn.
Giá chào thép cây xuất khẩu trọng lượng thực tế là 425-435 USD/tấn FOB. Một nhà cung cấp lớn cho hay không có nhu cầu tiêu thụ ở giá bán dưới 430 USD/tấn FOB do thị trường nội địa đã bán ở mức 430 USD/tấn xuất xưởng. Giá nội địa đã lên mức 430-435 USD/tấn. Trong khi mức giá 420 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ được nghe chào bán tới Đông Nam Á cho đơn hàng khối lượng lớn thì số liệu thực tế gần mức 425-430 USD/tấn FOB nhưng chưa có giao dịch.
Platts vẫn duy trì định giá tại mức 422.5 USD/tấn FOB.
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ngưng giảm, giá bắt đầu tăng trở lại
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu năng giá trở lại vào cuối tuần qua sau khi giá trượt dài trước đó.
Tâm lý thị trường ổn định hơn cộng với giá phế nhập khẩu dần tăng trở lại đã hỗ trợ giá thép cây trong nước. Giá nhập khẩu phế HMS 1&2 (80:20) đạt mức 270-275 USD/tấn CFR.
Giá niêm yết thép cây đường kính 12-32mm từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung ở mức 430-437 USD/tấn xuất xưởng chưa tính thuế trong ngày thứ sáu tùy vào từng khu vực, cao hơn 5 USD/tấn so với đầu tuần.
Giá từ các nhà môi giới tại khu vực Marmara cũng tăng 20 TRY/tấn (5.50 USD/tấn) trong ngày thứ sáu, lên mức 1.900-1.920 TRY/tấn đã tính thuế VAT 18% trong khi giá tại khu vực Karabuk là 1.860-1.880 TRY/tấn. Giá tại Iskenderun cũng tăng lên 1.840-1.860 TRY/tấn trong ngày thứ sáu.
Theo dự báo, các nhà máy thép cây xuất khẩu nước này cũng sẽ tiếp tục tăng giá chào trong những ngày tới.
Giá HRC nội địa và nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ ổn định
Giá chào bán HRC từ CIS vào Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định trong mấy ngày gần đây trong khi các nhà máy nội địa cũng duy trì giá niêm yết.
Giá chào từ CIS gần đây nhất ở mức 500-505 USD/tấn CIF. Sau khi có vài đơn hàng được chốt tại mức này trong tuần trước đó thì tuần qua không có giao dịch mới nào diễn ra.
Các nhà máy thép dẹt Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung đã có đủ đơn hàng cho tới tháng 6, nên vẫn duy trì giá chào bán trong hước và giá xuất khẩu để chờ thị trường toàn cầu năng động hơn.
Giá chào bán HRC Thổ Nhĩ Kỳ trong nước hầu như bình ổn tại mức 545-560 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ sáu trong khi giá giao dịch nhìn chung ở mức 545-550 USD/tấn xuất xưởng.
Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường nội địa vẫn chậm do người mua thận trọng trước cuộc trưng cầu Hiến pháp vào ngày 16/4 tới. Tâm lý thị trường có thể tiếp tục như vậy trong 2 tuần tới.
Giá chào bán HRC xuất khẩu cũng ổn định ở mức 535-545 USD/tấn FOB.
Doanh số bán thép cuộn cán nguội không gỉ Nhật Bản tăng trong tháng 2
Giá bán thép cuộn cán nguội không gỉ austenitic và ferritic Nhật Bản trong tháng 2 tăng 3.2% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 5.1% so với tháng 1 lên mức 58.830 tấn, theo như số liệu từ Hiệp Hội thép không gỉ Nhật Bản (JSCA).
Trong đó, doanh số bán thép tấm austenitic giảm 4.3% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 2.1% so với tháng 1, lên mức 30.163 tấn trong khi thép tấm ferritic tăng 12.8% và 8.5% so với tháng 1, lên 28.217 tấn.
Tồn kho thép tấm cán nguội không gỉ cuối tháng 2 tại các trung tâm thép ở Nhật Bản là 55.312 tấn, giảm 4% so với cùng kỳ năm ngoái và 3.8% so với tháng 1. Tồn kho thép tấm austenitic ở mức 44.297 tấn, giảm 4.3% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng không có thay đổi gì nhiều so với tháng 1.
Một nhà phân phối cho hay hàng tồn kho đang ở mức trung bình do cung-cầu đã thắt chặt. Vài khách hàng bắt đầu chấp nhận giá tăng để bảo toàn đơn hàng dựa vào giá trên thị trường có tăng ngắn hạn.
Nippon Steel & Sumikin Stainless nâng giá niêm yết CRC austenitic và thép tấm thêm 10.000 Yên/tấn (90 USD/tấn) đối với các hợp đồng tháng 3 còn với CRC ferritic thì thêm 15.000 Yên/tấn để bù đắp lại chi phí nguyên liệu ferrochrome tăng.
Giá thị trường hiện tại cho thép tấm dày CR 304 2mm tại Tokyo ở mức 330.000 Yên/tấn (2.973 USD/tấn) còn thép tấm mỏng CR 430 là 270.000 Yên/tấn (2.432 USD/tấn), cùng tăng thêm 10.000 Yên/tấn so với tuần trước đó.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á lún sâu do các nhà máy cắt giảm giá chào
Platts định giá thép cuộn cán nguội không gỉ 2B 304 2mm xuất xứ Đài Loan và Hàn Quốc tại mức 2.100-2.150 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, giảm 65 USD/tấn trong suốt tuần 27-31/3. Các nhà máy lớn đã giảm giá niêm yết xuống do tình hình thị trường giao ngay suy yếu.
Nhà máy Posco Hàn Quốc đang chào bán gần mức 2.250 USD/tấn FOB đối với lô hàng giao tháng 6 và tháng 7 tới Châu Á. Mức giá cao này cho thấy Posco đã tương đối nhận đủ đơn hàng.
Thời gian giao hàng đối với CRC 304 thông thường là một tháng rưỡi. Do đó, mặt hàng này không được Platts định giá do thời gian giao hàng từ 2 tháng trở lên trong khi Platts chỉ định giá sản phẩm có thời gian 4-8 tuần trở lại.
Trong khi đó, các nhà máy Đài Loan giảm giá chào bán các đơn hàng tháng 4 trong nước. Tuy nhiên, họ vẫn chưa nhận được giá chào xuất khẩu chính thức nào trong ngày thứ sáu. Họ tin rằng giá giao dịch không thể cao hơn mốc 2.150 USD/tấn CFR dựa vào giá chào cạnh tranh từ các đối thủ Trung Quốc. Giá chào từ Đài Loan là 2.200 USD/tấn CFR Châu Âu nhưng không có đơn hàng nào được chốt.
Nhà máy thép không gỉ lớn nhất Trung Quốc là Taigang Stainless Steel gần đây đã bán được vài lô hàng tại mức giá 2.040 USD/tấn FOB, giảm từ mức 2.070 USD/tấn FOB trước đó. Sau đó, vào cuối tháng qua, nhà máy này đã ngưng chào bán tại thị trường xuất khẩu. Giá CRC 304 nội địa Trung Quốc giảm 400 NDT/tấn (58 USD/tấn) trong tuần qua.
Giá giao dịch chính thức của niken tính bằng tiền mặt trên sàn giao dịch London Metal Exchangelà 9.930-9.935 USD/tấn trong ngày 30, tăng 20 USD/tấn so với tuần trước đó.
Nhà máy Hesteel Trung Quốc cắt giảm giá chào thép cây trong nước
Nhà máy Hesteel Group, một nhà máy sản xuất thép xây dựng lớn tại phía Bắc Trung Quốc đã quyết định giảm giá niêm yết thép cây xuống 170 NDT/tấn (25 USD/tấn) trong giai đoạn từ ngày 1-10/4. Sau khi cắt giảm, giá thép cây 18mm và 25mm giảm còn 3.750-3.770 NDT/tấn (544-547 USD/tấn).
Giá chào bán cho các mặt hàng thép cây trên từ các nhà máy Hesteel Group, Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel và Chengde Iron & Steel là giá bán tại Bắc Kinh và Thiên Tân và cũng là giá xuất xưởng trọng lượng lý thuyết đã gồm VAT.
Giá chào bán của Hesteel tương đương mức 3.866-3.887 NDT/tấn trọng lượng thực tế theo định giá của Platts.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ kéo giá thép Châu Á suy giảm theo
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong ngày thứ sáu do giá chào bán tới Châu Á giảm. Platts định giá thép cây BS500 16-20mm trong ngày thứ sáu tại mức 427-429 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, giảm 6 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà môi giới tại Hồng Kông cho biết giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ từ các thương nhân là 435 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 5 và 6 cho lô hàng 30.000 tấn. Sau khi chiết khấu 3 USD/tấn, giá còn tương đương 429 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 9 USD/tấn. Cũng trong ngày thứ sáu, một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào bán tại mức giá cao hơn là 420 USD/tấn FOB trọng lượng thực từ các thương nhân là 435-440 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 433-438 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 15 USD/tấn và 3% giá trị sai lệch khối lượng. Ông cho biết sẽ không mua do giá này cao hơn giá bán 410-420 USD/tấn trong khu vực.
Giá chào bán thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ sáu giảm 5 USD/tấn, còn 435-445 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 6, tương đương mốc 433-443 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, mức giá chào 435 USD/tấn CFR thì không ổn định.
Đại diện một nhà máy Trung Quốc cho biết giá chào bán của họ vẫn ở mức 460 USD/tấn FOB Trung Quốc. Họ sẽ đàm phán tại mức 465 USD/tấn CFR tùy thuộc vào điều khoản giao dịch.
Giá chào thấp nhất từ các nhà máy Trung Quốc vẫn ở mức không đổi 460 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 474 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính sai lệch khối lượng 3%.
Giá HRC Ấn Độ sụt giảm do nhu cầu tiêu thụ im ắng
Nhu cầu tiêu thụ im ắng buộc các nhà máy Ấn Độ giữ nguyên giá chào bán HRC nội địa trong suốt tháng 2 tới tháng 3. Platts định giá HRC IS 2062 3mm xuất xưởng Mumbai cố định tại mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (547-563 USD/tấn) đã bao gồm phí vận chuyển, tương đương mức 41.934 - 43.115 Rupees/tấn đã gồm 5% VAT và 12.5% thuế tiêu thụ đặc biệt.
Các nhà máy đã hai lần cố gắng nâng giá thép giao ngay trong nước nhưng đều thất bại do người mua phản đối. Họ đang cố gắng giữ hàng tồn ở mức thấp. Ấn Độ kết thúc năm tài chính trong ngày 31/3 và người bán không muốn nhập thêm hàng vào để gây áp lực tới số liệu cuối năm của họ.
Mặc dù các số liệu tháng 3 vẫn chưa công bố nhưng nhìn chung số lượng đơn hàng HRC trong tháng 2 tăng với tốc độ thấp hơn 10% so với tháng 1, còn 12.8 triệu tấn, theo các dữ liệu của
Joint Plant Committee trong khi doanh số tháng 1 đã tang 12% so với tháng trước đó, lên 11.6 triệu tấn.
Dù vậy, các nhà máy thép dự báo khối lượng các đơn hàng sẽ tăng trong tháng 3 do các quan chức cấp cao cạnh tranh nhau đạt được mục tiêu doanh số cuối năm.
Trong khi đó, tiêu thụ HRC nội địa chỉ tăng trưởng đều đặn trong tháng 3 dựa vào sự bình ổn từ ngành sản xuất xe hơi. Doanh thu bán xe khách tại Ấn Độ trong tháng 2 chỉ tăng 6.3% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 307.008 chiếc.
Các nhà máy thép đang âm thầm đẩy giá tháng 4 tăng thêm 2.000 Rupees/tấn nhưng người mua cho rằng đây chỉ là cố gắng vô ích vì họ đã thất bại trong tháng 3. Do tháng 4 là thời gian bắt đầu năm kinh doanh mới nên tiêu thụ thép thường trầm lắng và người mua không muốn giá tăng thêm chút nào nữa.
Giá thép tấm Đông Á suy yếu trong tháng 3 do lượng cầu thấp
Giá thép tấm dày thương phẩm Đông Á suy yếu trong tháng 3 theo đà rớt giá của thị trường thép nội địa và nhu cầu tiêu thụ thấp. Giá thép nội địa Trung Quốc đã bắt đầu giảm mạnh trong nửa cuối tháng 3.
Một thương nhân Singapore cho biết các nhà cung cấp hiện đang giảm mạnh giá chào bán sau khi cố giữ giá hồi nửa đầu tháng.
Giá chào bán thép tấm dày thương phẩm xuất xứ Trung Quốc hiện ở mức 470 USD/tấn CFR Singapore hoặc thậm chí là thấp hơn so với mức giá 535-550 USD/tấn CFR Singapore hồi ngày 24/3.
Tại Singapore, mặc dù giá chào bán giảm song vẫn không có người mua dựa vào ngành xây dựng im ắng. Nhu cầu tiêu thụ suy yếu do các dự án đã bị hoãn lại kể từ năm ngoái dựa vào các vấn đề về dòng chảy vốn. Kết quả là người mua thậm chí còn không quan tâm đến các lời chào bán.
Tại Hàn Quốc, các nguồn tin dự báo rằng các dự án của Chính Phủ sẽ bị treo cho tới Chính Quyền kế tiếp. Cuộc bầu cử Tổng Thống kế tiếp diễn ra vào ngày 9/5. Do vaaj, nhu cầu tiêu thụ hiện đang bị tối giản.
Tại Việt Nam, hầu hết các khách hàng đã có đủ trữ lượng tồn kho cho tới cuối tháng 4. Người mua dự báo giá còn giảm nữa với một giao dịch chốt tại mwsc 480 USD/tấn CFR hồi đầu tuần qua cho lô hàng 5.000-6.000 tấn.
Cho tới cuối tuần qua, giá chào bán tới Việt Nam đã rớt xuống mức 465 USD/tấn CFR nhưng không hề có đơn hàng nào được chốt.
Platts định giá thép tấm dày thương phẩm Q235/SS400 12-25mm hoặc kích thước tương đương tại mức 460-480 USD/tấn CFR Đông Á vào cuối tháng 3, giảm từ mốc 490-500 USD/tấn CFR Đông Á tháng trước đó. Giá trung bình giảm 25 USD/tấn so với tháng 2, còn 470 USD/tấn CFR.
Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc giảm theo đà suy yếu của thị trường nội địa
Giá xuất khẩu thép cuộn mạ nhúng nóng (HDG) Trung Quốc giảm mạnh hướng về cuối tháng 3, một phần do sự sụt giảm của giá thép nội địa và giá xuất khẩu thép cuộn cán nguội suy yếu. Trong tuần qua, thị trường khan hiếm các đơn hàng HDG xuất khẩu do giá giảm khiến người mua quay mặt.
Trong ngày thứ sáu (31/3), Platts định giá thép HDG DX51D dày 1.0mm mạ kẽm 120g/m2 tại mức 566-568 USD/tấn FOB với giá trung bình giảm 60.50 USD/tấn so với đầu tháng, còn 567 USD/tấn FOB.
Giá xuất khẩu CRC SPCC 1.0mm cũng giảm 65 USD/tấn trong tháng 3, lui về mức trung bình 530 USD/tấn trong ngày 28/3. Theo ghi nhận được vào ngày 31/3, vài thương nhân xuất khẩu đã bắt đầu bán khống CRC ở giá 505 USD/tấn FOB.
Trong cùng ngày, giá giao dịch HDG DX51D 1.0mm tại Thượng Hải đạt mức 4.300-4.420 NDT/tấn (624-641 USD/tấn) đã tính 17% VAT, giảm 580 NDT/tấn so với đầu tháng.
Trong ngày thứ sáu, một nhà máy lớn tại Đông Bắc Trung Quốc chào bán HDG phủ 140g kẽm/m2 tại mức 615 USD/tấn FOB, tương đương mức 600 USD/tấn FOB đối với HDG phủ 120g kẽm/m2.
Tuy nhiên, vài thương nhân xuất khẩu cho biết giá chào 600 USD/tấn thì vô nghĩa trên thị trường do khách hàng thậm chí còn không quan tâm tới giá 570-575 USD/tấn và không có giao dịch nào được chốt trong ngày thứ sáu.
“Xu hướng suy yếu của thị trường thép dẹt bao gồm cả HDG sẽ còn tiếp tục nên không có gì làm lạ về việc không có đơn hàng HDG nào tại thị trường xuất khẩu”, một thương nhân Thượng Hải cho hay. Ông còn cho rằng chính sự sụt giảm của giá thép giao ngay trong nước khiến cho nhu cầu tiêu thụ trầm lắng và hàng tồn kho cao.
Giá nhập khẩu phôi phiến Đông Á suy yếu trong bối cảnh thị trường trầm lắng
Thị trường nhập khẩu phôi phiến Đông Á trong tháng 3 diễn ra rất trầm lắng do chênh lệch giá chào bán và chào mua khác biệt dẫn đến không có đơn hàng.
Các nhà cung cấp phôi phiến Nga chào bán lô hàng giao tháng 6 tại mức giá 435-440 USD/tấn CFR Indonesia. Tuy nhiên, các khách hàng Indonesia lại nhắm vào mức giá 420 USD/tấn.
Hồi đầu tháng 3, giá chào phôi phiến Nga giao tháng 5 cũng ở cùng mức 435-440 USD/tấn CFR Indonesia. Một thương nhân cho biết có người mua ở mức này trong khi các nguồn khác bảo rằng không hề có giao dịch nào diễn ra vì cho rằng giá này có vẻ cao.
Giá chào bán từ các khu vực khác vẫn ổn định trong bối cảnh thiếu nguồn cung từ Iran. Giá chào phế Iran ở mức thấp nhất do nhiều nước ASEAN đang đối mặt với khó khăn khi mua thép Iran, điều này bao gồm cả những phức tạp liên quan tới vấn đề tài chính của mặt hàng này.
Một thương nhân Thái cho biết không hề nghe giá chào nào từ Iran nhưng nhu cầu tiêu thụ rất yếu dựa vào lễ đang tới gần. Thị trường phôi phiến rất trầm lắng còn thị trường HRC thì rất tệ.
Một khách hàng quen thuộc tại Indonesia, PT Krakatau Steel đã rút khỏi thị trường trong mấy tuần gần đây do đang bảo trì nhà máy cán nóng có công suất 2.4 triệu tấn/năm.
Giá chào phôi phiến ở mức 435-440 USD/tấn CFR Đông Nam Á bao gồm cả Indonesia, và một khách hàng thậm chí còn nhận được chào giá ở mức 445 USD/tấn CFR. Những mức giá này dường như cao nhưng người mua dự báo sẽ giảm giá xuống còn 425-430 USD/tấn CFR.
Platts giảm định giá hàng tháng đối với thép SAE1008, SAE1006 hoặc phôi phiến loại tương đương ở mức 430-435 USD/tấn CFR, giảm 5 USD/tấn so với mức giá 435-440 USD/tấn CFR trong ngày 28/2.
Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong khi giá Châu Á giảm
Sau khi giảm 38 USD/tấn trong vòng 15 ngày tính từ ngày 9 cho tới ngày 24 tháng 3, thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ đã khởi sắc trở lại trong tuần qua. Platts tăng định giá nhập khẩu của phế liệu nung chảy nặng (HMS) I/II (80:20) từ mức 265 USD/tấn lên mức 273 USSD/tấn CFR.
Các nhà máy và các thương nhân đã quên đi các lo âu trước đó về việc giá phế Trung Quốc suy yếu và tập trung hơn vào việc giá phế đang ở mức thấp hơn so với quặng sắt và bán thành phẩm lò cao, với giá giao dịch phôi thép CIS đạt mức 387 USD/tấn FOB. Chênh lệch giá phế-phôi thanh quanh mốc 80 USD/tấn. Đó là lý do tại sao các nhà máy đã không mua thêm phế.
Sau khi một nhà cung cấp phế lên tiếng xác nhận đã bán một lô hàng ở mức 270 USD/tấn CFR cho loại 80:20 thì tâm lý thị trường cũng ổn định hơn. Kể từ đó, các nhà cung cấp phế tại Mỹ đã yên tâm hơn và chào giá tại mức 280 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu.
Trong khi đó, xu hướng giá phế Nhật Bản lại suy yếu thêm. Nhà máy thép Dongkuk Steel Mill đã đặt mua phế H2 Nhật với giá 28.000 Yên/tấn (250 USD/tấn) FOB trong ngày 24/3. Một nhà máy thép tại phía Nam Hàn Quốc đã nhận được các lời chào bán cho khối lượng 60.000-70.000 tấn nhưng chỉ mua 15.000 tấn. Khác với các nhà máy phía Nam, không hề có đơn hàng nào được chốt ở các vùng khác.
Tuy nhiên, các thương nhân Nhật Bản nhận được vài yêu cầu hỏi mua từ các nhà máy thép Việt Nam với giá 280 USD/tấn CFR cho loại phế H2, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Được biết, các thương nhân Nhật Bản đang trả tầm 28.000-28.500 Yên/tấn FAS để thu mua phế H2 xuất khẩu từ miền đông nước này, giảm 1.000 Yên/tấn so với tuần trước đó.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing vừa qua đã giảm giá mua phế xuống 500 Yên/tấn đối với tất cả các mặt hàng phế và tại tất cả các xưởng cũng như trung tâm dịch vụ của nhà máy kể từ ngày 16/3. Công ty này đang mua phế H2 ở mức 3.500 Yên/tấn, giao bằng xe tải tới các xưởng ở Utsunomiya, phía Bắc Tokyo. Tuy nhiên, vài nhà máy nhỏ quanh vịnh này đã giảm giá mua phế xuống thêm 500 Yên/tấn trong tuần này dựa vào nguồn cung tăng.
Platss định giá xuất khẩu phế H2 tại mức 27.500-28.000 Yên/tấn FOB Vịnh Tokyo trong ngày thứ tư (29/3) với giá trung bình thấp hơn tuần trước đó 1.500 Yên/tấn, còn 27.750 Yên/tấn FOB.
Trong khi đó, thị trường nhập khẩu phế HMS khối lượng lớn Đông Á tiếp tục suy yếu. Nhà máy Dongkuk Steel mua một lô hàng phế nhập khẩu có tổng khối lượng là 32,000 tấn gồm phế HMS I/II 80:20 với giá 280 USD/tấn CFR và phế vụn với giá 285 USD/tấn CFR trong ngày 24/3 giao vào tháng 5.
Trong khi đó, một nhà máy Việt Nam đặt mua một lô phế khối lượng lớn từ Mỹ với giá 285 USD/tấn CFR Việt Nam hồi đầu tuần. Khối lượng giao dịch tầm 25.000 tấn giao tháng 5.
Tại Đài Loan, trong ngày 24/3, giá phế containerized được đặt mua tại mức giá 265 USD/tấn CFR Đài Loan giao tháng 5. Giá loại phế này thường thấp hơn phế HMS tầm 20 USD/tấn.
Trong ngày thứ tư, Platts giảm định giá phế HMS I/II 80:20 khối lượng lớn Đông Á tạ xuống còn 280-285 USD/tấn CFR từ mức 295-300 USD/tấn CFR tuần trước đó. Giá trung bình giảm 15 USD/tấn, còn 282.50 USD/tấn CFR.
Chênh lệch giá phế vụn và chất lượng cao suy yếu gây áp lực cho thị trường phế Mỹ
Các nhà máy thép tại Mỹ dự báo sẽ ráo riết đẩy giá chào mua xuống đối với mặt hàng phế cũ trong tuần này trong khi thị trường dấy lên nghi vấn về việc liệu chênh lệch giá phế cũ với phế chất lượng cao có ổn định hay không.
Các nguồn tin đều nhất trí rằng mặt hàng phế cũ, nhất là phế vụn sẽ chịu nhiều áp lực nhất với nguy cơ giảm 20-40 USD/tấn. Trong ngày thứ sáu vừa qua, các nguồn tin tranh cãi về việc giá phế vụn giảm sẽ kéo phế chất lượng cao cũng tụt dốc theo.
Platts định mức chênh lệch giá phế vụn với phế busheling số 1 ở mức 60-65USD/tấn. Một nhà cung cấp phế tại Midwest cho hay ông thật sự chán nản khi hay tin rằng chênh lệch giá sẽ không còn ở mức cao này nữa. Cho tới khi các nhà máy chuyển sang sử dụng tất cả các loại phế khác mà không dung phế busheling nữa thì chênh lệch giá mới đạt được mốc trên.
Chênh lệch giá giữa hai loại phế trên đã chưa thể vượt qua được mức 70 USD/tấn kể từ hồi tháng 9 năm 2010. Trước đó, vào tháng 6 mức chênh lệch cán mốc cao 100 USD/tấn và vào tháng 7 năm 2008 thì tới 300 USD/tấn khi mà giá phế busheling số 1 gần mức 900 USD/tấn.
Trong tuần qua, vài nhà máy thép dự định giảm tiêu thụ phế chất lượng cao. Một nhà máy cho biết sẽ giảm khoảng 10% và thay vào đó là tăng thêm 4% gang thỏi và 6% phế vụn.
Vài nhà máy đã hủy các đơn đặt hàng phế tháng 3 chưa giao, trong đó có gồm phế chất lượng cao. Một nhà cung cấp tại Northeast cho biết người mua có thể giảm mua vào trong tháng 4 rồi mua thêm trong tháng 5 nhưng sẽ không thể mua nhiều trong tháng 6 vì gần tới kỳ bảo dưỡng nhà xưởng trong tháng 7.
Một nhà cung cấp khác tại Midwest cho rằng giá phế vụn sẽ giảm hơn 20 USD/tấn nhưng không quá 40 USD/tấn và tin rằng giá phế chất lượng cao sẽ giảm khoảng một nửa mức giảm của phế vụn. Các nhà máy sẽ có lượng mua vào như nhau trong tuần này.
Tình hình thị trường trong ngày cuối tuần qua trầm lắng và các nguồn tin cho rằng các giao dịch sẽ chỉ nhộn nhịp hơn trong ngày mai.
Hàng tồn kho cao và thanh khoản thắt chặt chèn ép các cổ đông tại Anh
Bất kể là mặt hàng nào thì tình hình của các cổ đông tại Anh đều lâm vào tình thế như nhau đó là hàng tồn kho cao, giá bán chạy thép gặp áp lực và thanh khoản thắt chặt.
Trong năm ngoái, các cổ đông đã bước vào thời kỳ hưng thịnh nhất khi mà các nhà máy đẩy giá thép cuộn cán nóng lên thêm 200 Pounds/tấn (251 USD/tấn) và các nhà tiêu thụ cuối buộc phải chấp nhận giá bán chạy tăng. Tuy nhiên, khi thị trường chạm đến đỉnh, các cổ đông dường như không thu lại được bất kỳ khoản tăng nào từ phía khách hàng.
Với giá chào bán HRC từ Tây Âu ở mức 520-530 Pounds/tấn DDP West Midlands, giá bán chạy dường như bị kẹt ở mốc 510-520 Pounds/tấn DDP. Điều này dẫn tới khoản lãi cao đối với các lô hàng được đặt mua ở mức cao 300 Pounds/tấn, tuy nhiên các đơn hàng cho HRC Quý 2 chỉ quanh mức 510 Pounds/tấn DDP khiến nhiều cổ đông lo lắng về việc liệu họ sẽ phải đào đâu ra thêm 70-80 Pounds/tấn để duy trì mức lợi nhuận.
Tình hình có vẻ còn tệ hơn ở thị trường thép cán nguội với giá chào CRC khác nhau từ các cổ đông và các trung tâm dịch vụ. Một nguồn tin cho biết giá chào bán lô hàng CRC giao tháng 4 là 595-690 Pounds/tấn trong khi giá các lô mới là 610 Pounds/tấn.
Ngoài nhu cầu tiêu thụ trầm lắng thì các cổ đông còn chịu áp lực chính từ thanh khoản thắt chặt và sự cần thiết đổi chứng khoán ra tiền mặt. Hàng tồn kho cao cũng đè nặng lên giá chào bán. Một cổ đông cho hay các cổ đông đều đã hoàn thành việc mua thép Q2 nên không cần mua nữa. Câu hỏi được đặt ra lúc này là các cổ đông cần đơn hàng hay các nhà máy cần bán hàng.
Tuy nhiên, nguồn tin từ một nhà máy cho hay đã nhận được đơn đặt hàng cho tới tháng 6 và không cần thêm đơn hàng nữa. Thay vào đó, mối quan tâm chính là hướng vào thị trường suy yếu. Các trung tâm dịch vụ đã không thể áp đầy đủ giá tăng vào thị trường.
Các cảng gần như đã gần hết chỗ chứa hàng với thông tin cho biết có một tàu đã rời đi và dự báo sẽ có thêm 100.000 tấn thép cập bến trong tháng 4.
Trong khi đó, có nguồn tin cho hay vài lô hàng HDG từ Trung Quốc đang tới trong dự báo sẽ có thuế chống bán phá giá. Thương nhân này cho biết đã có thêm 200.000 tấn thép HDG tại các cảng ở Anh. Một nguồn tin khác nhận định rằng sẽ phải mất tới Q4 mới ngốn hết đống thép này.
Giá HRC Trung Quốc chạm mốc thấp 18 tuần trong bối cảnh khan hiếm đơn hàng
Đơn hàng khan hiếm cộng với giá thép trong nước suy yếu đã thúc đẩy nhiều nhà máy thép Trung Quốc cắt giảm giá chào bán HRC xuất khẩu. Giá HRC SS400 3mm theo định giá Platts đạt mức 460-465 USD/tấn FOB Trung Quốc với giá trung bình ở mức 462.50 USD/tấn, giảm 7.50 USD/tấn so với ngày hôm trước, chạm mốc thấp nhất tính từ ngày 25/11/2016.
Trong khi đó, giá chào bán HRC cùng loại tới thị trường Đông Nam Á đạt mức 470-475 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 19.50 USD/tấn so với tuần cuối tháng 3. Tại thị trường Thượng Hải cùng ngày, giá chào bán HRC Q235 5.5mm ở mức 3.330-3.340 NDT/tấn (483-485 USD/tấn) xuất xưởng đã gồm 17% VAT, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước.
Theo các nguồn tin cho hay, vì đang trong cơn khát đơn hàng xuất khẩu nên một nhà máy lớn tại vùng Đông Bắc Trung Quốc sẵn sàng bán với giá 460-465 USD/tấn FOB Trung Quốc nếu người mua chắc chắn giữ đơn hàng.
Trong tuần thứ ba của tháng 3 vừa qua, một nhà máy khác tại miền Đông Trung Quốc đã bán vài lô hàng HRC SS400 khối lượng nhỏ sang Thái Lan tại mức giá 465 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi một nhà máy khác ở phía Bắc chỉ bán ở mức 460 USD/tấn vào tuần kế tiếp.
Bàn về thị trường, một thương nhân Trung Quốc giải thích rằng hầu hết các nhà máy đều sẵn sàng giao dịch ở mức 465 USD/tấn FOB nhưng vấn đề là không có người mua. Trong khi đó, một nhà máy thép cán lại tại Việt Nam lên tiếng rằng mặc dù phía bán đang cố gắng thuyết phục chúng tôi mua hàng nhưng tình hình thị trường làm chúng tôi phải do dự.
Một thương nhân Trung Quốc cho biết trong thời gian gần đây, các khách hàng Việt Nam không còn đặt hàng nữa sau khi giá thép Trung Quốc giảm. Vài khách hàng còn hối tiếc vì đã đặt mua ở mức giá cao trước đó.
Đối với mặt hàng thép cuộn cán nóng loại SAE, giá chào từ Trung Quốc ở mức 475-485 USD/tấn CFR Việt Nam. Theo nhận định từ cả bên mua và bán thì các nhà nhập khẩu sẽ chỉ đặt hàng trở lại sau kỳ nghỉ lễ 2/4 tại Trung Quốc.
Thị trường phôi thép Đông Nam Á trầm lắng dưới sức ép giá không ổn định tại Trung Quốc
Các khách hàng Đông Nam Á có vẻ xa lánh thị trường phôi thép trong tuần qua dựa vào tình hình giá tại Trung Quốc không ổn định. Phôi thép Trung Quốc bị bỏ lơ do các nhà nhập khẩu chuyển sang các nguồn cung cấp giá thấp hơn tại khu vực.
Một nhà máy thép cán lại tại Indonesia đã đặt mua một lô phôi thép tại mức giá thấp 428 USD/tấn CFR từ nhiều mối khác nhau. Nhiều nguồn tin khác nhau tại Jakarta cho biết đã nghe việc đặt mua một đơn hàng phôi thép Thổ Nhĩ Kỳ khối lượng 10.000 tấn. Họ cho biết thêm là phôi thép Trung Quốc không có đường nhập vào Indonesia vì giá cả đắt.
Tuy nhiên, một nguồn tin từ các nhà thầu lại cho rằng không có đơn hàng nào được chốt bởi vì phía cung cấp không đáp ứng được yêu cầu giao hàng vào cuối tháng 4. Trong ngày thứ sáu vừa qua, một nhà máy thép cán lại cho biết có thêm một đơn hàng nữa với khối lượng 28.000 tấn giao vào cuối tháng 4 từ một khách hàng không còn nhiều phôi thép tồn kho.
Giá chào phôi thép Việt Nam trong tuần qua ở mức 445 USD/tấn CFR Indonesia nhưng không rõ là có giao dịch hay chưa. Một thương nhân Jakarta cho biết người mua muốn chốt ở mức 435 USD/tấn CFR.
Tại Manila, giá chào phôi thép loại S275 120mm Trung Quốc tăng lên lại mức 450 USD/tấn CFR sau khi đã giảm xuống mức 440 USD/tấn hồi giữa tuần. Tuy nhiên, không có đơn hàng nào được chốt do người mua rút lui khi thấy giá suy yếu. Những mức giá chào bán thấp từ Trung Quốc là từ vị thế giá xuống của các thương nhân do các nhà máy chào bán tại mức cao hơn.
Trong khi đó, giá phôi thép Nga giao tháng 6 gần đây được chào bán tại mức 440 USD/tấn CFR Manila. Giá phôi thép Nga bị đánh thuế nhập khẩu 3% tại thị trường Philippines.
Platts giữ nguyên định giá chào xuất khẩu phôi thép 120/130mm CFR Đông Á ở mức 430-440 USD/tấn, giảm so với giá 435-334 USD/tấn CFR trước đó. Như vậy, giá trung bình ở mức 435 USD/tấn, thấp hơn 5 USD/tấn so với tuần trước đó.