Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 03/11/2014

Nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong 9 tháng đầu năm, giá tháng 9 tăng

Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt mua 14.668 triệu tấn phế từ các nhà cung cấp toàn cầu trong 9 tháng đầu năm 2014, cao hơn 0.2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ từ nguồn cung lớn nhất, Mỹ, đã giảm đáng kể trong 9 tháng. Tổng xuất khẩu phế Mỹ tới Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 26.5% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 2.98 triệu tấn trong khi nhập khẩu từ Nga tăng mạnh 58% lên 2.23 triệu tấn.

Các nước EU là nhà cung cấp lớn khác trong giai đoạn này. Anh vận chuyển 1.85 triệu tấn tới Thổ Nhĩ Kỳ trong khi Bỉ vận chuyển 1.11 triệu tấN. Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 701.000 tấn từ Hà Lan, 389.245 tấn từ Đức. Romania cung cấp 1.05 triệu tấn trong khi nhập khẩu từ Ukraina tổng cộng 362.853 tấn.

Giá nhập khẩu trung bình trong 9 tháng là 378.30 USD/tấn cfr.

Chỉ tính riêng trong tháng 9, nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái còn 1.67 triệu tấn, nhưng tăng 7.8% từ mức 1.55 triệu tấn nhập khẩu trong tháng 8. Gía trung bình tháng 9 tăng 4.5 USD/tấn so với tháng 8, đạt mức 379.5 USD/tấn CFR.

Mỹ vẫn là nguồn cung lớn nhất trong tháng 9 với 371.192 tấn trong khi xuất khẩu từ Anh tới Thổ Nhĩ Kỳ tăng gấp đôi so với tháng 8, đạt mức 238.873 tấn.

Thổ Nhĩ Kỳ cũng nhập khẩu 223.665 tấn phế từ Nga trong tháng 9 trong khi Bỉ vận chuyển 148.536 tấn, theo sau là Romania với 119.845 tấn và Ukraina với 94.855 tấn.

Đài Loan: Yusco giảm giá xuất khẩu thép cuộn không gỉ xuống 150 USD/tấn

Nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất của Đài Loan, Yieh United Steel Corp (Yusco), thông báo hôm thứ sáu tuần trước sẽ giảm giá cho tất cả các loại thép cuộn và tấm cán nóng cũng như cán nguội không gỉ xuất khẩu tháng 12 xuống 150 USD/tấn.

Yusco cũng giảm giá tháng 11 ở trong nước cho các sản phẩm cán nóng và cán nguội loại 300-series xuống lần lượt là 5.000 Đài tệ/tấn (164 USD/tấn) và 4.500 Đài tệ/tấn, còn các sản phẩm thép không gỉ loại 400-series giảm 500 Đài tệ/tấn.

Theo đó, giá niêm yết trong nước của công ty cho HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm còn lần lượt 95.500 Đài tệ/tấn (3.140 USD/tấn) và 100.000 Đài tệ/tấn, theo tính toán của Platts từ những thông báo trước đây của Yusco. Còn Yusco không tiết lộ giá xuất khẩu của họ.

Yusco cho biết công ty đang giảm giá để phản ánh chi phí sản xuất thấp hơn và hỗ trợ cho những khách hàng nào đang đối mặt với sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu giá rẻ.

Yusco đã và đang sản xuất khoảng 70% công suất trong những tháng gần đây. Nhà máy có sản lượng 80.000-83.000 tấn thép không gỉ mỗi tháng tại xưởng Kaohsiung, miền nam Đài Loan.

Giá thép cuộn không gỉ ở Đông Á vẫn còn bị sức ép sau khi giá niken bắt đầu sụt giảm vào đầu tháng 09. Giá có thể giao dịch cho CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc đã giảm còn 2.450-2.550 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, giảm khoảng 150 USD/tấn trong tháng qua. 

Trung Quốc: Giá nhập khẩu FeCr không đổi do sức mua vẫn còn mỏng 

Hôm thứ Sáu, Platts định giá giao ngay cho ferrochrome hàm lượng cacbon cao của Ấn Độ (58-60% Cr) là 82-84 cents/lb CIF và quặng chrome (48-52% Cr) của Nam Phi là 78-79.5 cents/lb CIF Trung Quốc, cả hai đều không đổi so với tuần trước đó.

Hầu hết mọi người đều cho biết họ không có yêu cầu nào hay không cần đến nguyên liệu nhập khẩu. Nhu cầu nhập khẩu vẫn còn ít ỏi mặc dù các nhà sản xuất thép không gỉ chủ chốt của Trung Quốc đang duy trì giá mua ferrochrome tháng 11 ở trong nước suốt tuần qua.

Một vài nhà quan sát thị trường cho biết giá ferrochrome của Trung Quốc đã gần chạm đáy. Bởi vì điều này và ngoài ra còn do sản lượng cắt giảm ở Nội Mông Cổ và miền nam Trung Quốc nên nhu cầu ferrochrome nhập khẩu có thể sẽ tăng. Nhưng hầu hết các nguồn tin đều cho biết họ không thấy sự gia tăng trong việc nhập khẩu hồi tuần trước. “Nguồn cung không thực sự hạn chế. Mức tồn kho vẫn còn cao ở trong nước”, một thương nhân ở miền bắc Trung Quốc cho hay.

Hầu hết người bán cũng ghi nhận có ít yêu cầu từ phía người mua trong tuần trước. Các nhà cung cấp Ấn Độ cho biết nguồn cung ferrochrome từ nước này vẫn còn hạn chế trong bối cảnh sản lượng cắt giảm ở trong nước. Nhiều người không chào bán do giá ở Trung Quốc quá thấp để chấp nhận.

Cũng không có giao dịch nào được nghe nói cho quặng chrome nhưng theo các nguồn tin thì giá có thể giao dịch là từ 78-79.5 cents/lb CIF.

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) từ Trung Quốc không đổi so với tuần trước và duy trì mức 6.200-6.400 NDT/tấn (tương đương 76-79 cents/lb) vào thứ tư tuần trước. 

Giá phế khối lượng nhỏ bờ Tây Mỹ giảm

Giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Bờ Tây Mỹ tới Đông Nam Á đã giảm trong tuần qua trong khi thị trường phế khối lượng lớn vẫn trầm lắng. Các đơn hàng phế HMS I/II 80:20 khối lượng nhỏ vẫn bình ổn ở mức 300 USD/tấn CFR Đài Loan trong gần 2 tuần, giảm từ mức 290-295 USD/tấn do các nhà cung phế Mỹ chấp nhận giá chào mua thấp.

Platts giảm giá phế HMS 80:20 khối lượng nhỏ Bờ Tây Mỹ xuống 10 USD/tấn trong ngày cuối tuần qua, còn 270 USD/tấn FAS cảng LA.

Một nhà buôn phế cho biết giá quặng vẫn rất thấp và quá rẻ. Nếu quặng tăng giá thì phế mới tăng giá.

Giá phế khối lượng lớn Mỹ có sẵn ở mức 315-320 USD/tấn CFR Tây Bắc Á và 320-325 USD/tấn CFR Đông Nam Á đối với loại HMS I/II 80:20. Các thương nhân cho rằng giá này quá cao cho các nhà nhập khẩu dựa trên giá chào bán thấp từ Nhật và Nga và phôi thanh giá thấp có sẵn từ Trung Quốc. Do hầu hết các nhà máy đã giảm quá trình  nung nóng chảy và sử dụng phôi thanh Trung Quốc như hàng dự trữ nên một nguồn tin Malaysia tin rằng nguồn cung phế sẽ vượt quá cầu.

Một thương nhân Trung Quốc cho rằng ngưởi mua sẽ trả giá tối đa là 300-310 USD/tấn.

Nhập khẩu phế HMS 80:20 khối lượng vào Đông Á theo Platts giảm còn 310-320 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu, giảm từ mức 320-330 USD/tấn CFR tuần trước đó.

Phế khối lượng lớn Nga khá thu hút. Trong tuần qua, một nhà máy lớn Nga đã mua được 25.000 tấn phế A3 Nga tại mức 295 USD/tấn CFR giao tháng 11 và 12. Phế A3 Nga gần đây được đặt mua tại mức 310 USD/tấn CFR Đài Loan.

Giá thép không gỉ Châu Á đi ngang trong khi chờ chào giá của các nhà máy 

Hôm thứ Sáu, Platts định giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.450-2.550 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, không đổi so với tuần trước đó do thị trường đang đợi chào giá tháng 11 từ các nhà sản xuất thép không gỉ.

Không có giao dịch nào được xác nhận trong khi chào bán thưa thớt vào tuần trước. Chào giá từ Hàn Quốc tuần trước nghe nói khoảng 2.550 USD/tấn CFR, so với 2.500-2.600 USD/tấn CFR của tuần trước. Các nguồn tin đã chốt giá có thể giao dịch cho CRC từ cả hai nước này là 2.450-2.550 USD/tấn CFR.

Yieh United Steel Corp (Yusco) của Đài Loan đã thông báo giảm 150 USD/tấn cho giá xuất khẩu vào thứ sáu. Trong khi các thương nhân cho biết đến ngày thứ sáu họ vẫn chưa nhận được chào giá chính thức nào từ các nhà sản xuất thép, thì hầu hết đều dự đoán giá từ các nhà sản xuất trong khu vực sẽ giảm do giá niken thấp hơn suốt tháng qua.

Phần lớn các khách hàng Trung Quốc không quan tâm đến việc nhập khẩu sau khi giá thép không gỉ trong nước giảm. Một thương nhân ở Hong Kong dự báo giá CRC 304 2mm 2B ở trong nước của Trung Quốc tương đương 2.400 USD/tấn hay thấp hơn. Các nhà cung cấp ở nước ngoài vẫn chưa sẵn lòng bán với giá thấp như vậy.

Một thương nhân ở miền bắc Đài Loan cho biết tuần trước bà không còn giảm chào giá nữa do giá niken đã ổn định trong suốt tuần qua. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng vẫn muốn đợi xem sao.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange hôm 30/10 là 15.300-15.325 USD/tấn, tăng 400 USD/tấn trong tuần qua. 

Giá thép cây Nam Mỹ  chịu áp lực hàng nhập khẩu

Người mua thép cây Mỹ tại Southeast dự báo tình hình thị trường thép cây nhìn chung sẽ bình ổn trong tháng 11 bất chấp hàng nhập khẩu tại Florida và giá nguyên liệu thô rẻ hơn đến vào đầu năm tới đang gây áp lực lên giá thép.

Platts giảm giá thép cây Đông Nam Mỹ xuống mức 620-640 USD/tấn xuất xưởng trong cuối tuần qua từ mức 630-650 USD/tấn xuất xưởng.

Một người mua thép cây tại Florida cho biết có một nhà máy đã giúp Ông cạng tranh với thép cây nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đang mua tại mức 600-630 USD/tấn xuất xưởng tùy thuộc vào chiều dài thép cây. Các nhà nhập khẩu đang hạn chế nhập hàng vào trước cuối năm do thuế tồn kho cao nhưng không phải tại Florida.

Người mua thép cây đồng tình rằng hàng nhập khẩu đã tràn lan thị trường Florida. Ông cho biết có thể mua thép cây nhập khẩu tại mức 560-580 USD/tấn tải bằng xe tải tại cảng gần nhất và thép cây nhập khẩu có thể rẻ hơn nữa. Ông cho biết giá thép cây trong nước là 620 USD/tấn xuất xưởng.

Một người mua thép cây khác cho biết phí đầu vào vẫn không đổi nhưng không dự báo giá sẽ cạnh tranh hơn tại thị trường Florida. Gía mua của ông bình ổn ở mức 640 USD/tấn xuất xưởng nhưng ông nhận thức rằng giá chào nhập khẩu Q1 sẽ gây áp lực lên giá nội địa.

Giá thép cuộn Mỹ dự báo tăng nhưng chưa rõ ràng

Thông báo nâng giá thép cuộn thêm 20 USD/tấn của hai nhà máy AK Steel và US Steel dường như đã ngăn không cho giá thị trường giảm nữa.

Phần lớn các nguồn tin cho rằng giá tăng này mong manh do thị trường vẫn suy yếu.

Hàng tồn kho vẫn cao và giá nhập khẩu thu hút sẽ thôi thúc người mua từ chối giá tăng 20 USD/tấn với giá HRC đạt mức 650 USD/tấn xuất xưởng nếu đạt được.

Một nhà nhập khẩu phía Nam cho biết các nhà máy có thể đã lạc quan hơn trước việc chấm dứt hiệp định đình chỉ HRC Nga.

Tuy nhiên, phần lớn người mua HRC vẫn thay đổi nhà cung cấp trong tháng 6 và 7 dưới dự báo các chế tài. Và các nhà máy này không bị ràng buộc pháo lý với Hiệp định thương mại để duy trì giá tối thiểu.

Ít nhất 1 người mua tỏ ra lạc quan và tin rằng các nhà máy Mỹ sẽ trở về mức 650-660 USD/tấn trước sự trở lại của nhu cầu tiêu thụ từ ngành sản xuất xe hơi trong Q1 2015.

Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 635-645 USD/tấn trong cuối tuần qua trong khi CRC là 760-770 USD/tấn xuất xưởng Midwest Indiana.

Giá OCTG của Trung Quốc dịch chuyển đi xuống khi sắp hết năm 

Giá xuất khẩu các sản phẩm ống thép dùng trong ngành dầu khí (OCTG) của Trung Quốc tiếp tục xu hướng đi xuống trong tháng 10, do thép tròn đặc và thép ống xanh ở thị trường trong nước đang trên đà lao dốc và các nhà xuất khẩu cũng bị sức ép để chốt được nhiều đơn đặt hàng hơn trước cuối năm khi thị trường nội địa trì trệ vào mùa đông.

Hôm 31/10, Platts định giá BTC R3-length API J/K55 đường kính 177.8x8.05mm (7 inch, 23 lb/ft) từ các nhà máy ống đúc Trung Quốc và dây chuyền thành phẩm là 715-750 USD/tấn FOB Thiên Tân, giảm 15 USD/tấn so với tháng trước.

Một vài nhà máy nhỏ hơn chẳng hạn như một nhà máy cắt ren ở miền bắc Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng lên tới 200 NDT/tấn (33 USD/tấn) cho BTC K55 trong suốt tháng 10. Platts định giá cho loại này là 685 USD/tấn FOB, dựa trên giá xuất xưởng tới cảng.

Bị sức ép bởi thanh khoản eo hẹp và nhu cầu suy yếu như dự đoán trước cuối năm, các nhà máy phải hạ chào giá xuống thấp hơn mặc dù mức giá này đã khiến việc kinh doanh xuất khẩu của họ không thu được biên lợi nhuận.

Một vài nhà máy lớn cho biết họ cũng đang chứng kiến cảnh không có đủ đơn đặt hàng. Việc xuất khẩu trong hai tháng cuối năm nay rất quan trọng đối với những nhà máy để hoàn thành kế hoạch bán hàng của họ.

Do đó, hầu hết các nhà máy đều cho biết không có cơ hội cho các nhà xuất khẩu trong nước để tăng chào giá của họ trong hai tháng cuối năm mặc dù phần lớn các nhà sản xuất OCTG đều đã hoạt động với lợi nhuận thấp nhất hoặc thậm chí là không có lời.

Việc cạnh tranh giá tiếp tục diễn ra vào năm tới cũng không thể tránh khỏi. Một nhà máy ở miền đông sẽ tiếp tục tập trung vào các thị trường nước ngoài chẳng hạn như Trung Đông, Canada, Australia và Nga.

Trong suốt 9 tháng đầu năm, khối lượng xuất khẩu OCTG từ Trung Quốc giảm 8% so với năm trước đó còn 1,5 triệu tấn, theo số liệu từ Hải quan Trung Quốc. 

Giá thép tấm Nga tăng nhờ nguồn cung

Các nhà máy thép tấm Nga đã tăng giá thành công lần thứ hai liên tiếp. Thép cuộn tháng 11 đã tăng 400-500 Rub/tấn (10 USD/tấn) với doanh số giao ngay giảm.

Cách đây 2 tháng, các đơn hàng tháng 11 vẫn được ưa chuộng nhờ nhà máy Alchevesk Ukraina vẫn ngưng sản xuất. Gía tháng 11 đối với thép tấm 16-400mm cố định tại mức 19.900-20.150 Rub/tấn (463-468 USD/tấn) xuất xưởng chưa tính VAT 18%, tăng từ mức 19.250-19.500 Rub/tấn. Nếu giao tới Maxcova, giá đạt mức 21.650-21.800 Rub/tấn (504-507 USD/tấn) CPT chưa tính VAT.

Trong tháng 10, các xưởng của công ty Asha tại khu vực Chelyabinsk dãy Urals đã  ngưng sản xuất trong 5 ngày, giúp cắt giảm sản lượng xuống hơn 8.000 tấn. Nhà máy này thường vận chuyển 50.000 tấn thép tấm/tháng. Vài đơn hàng của Asha tháng qua do đó vẫn kéo dài tới tháng 11. Nhà máy này cũng tăng tốc tìm kiếm đơn hàng để xử lý hàng tồn kho.

Nguồn cung thiếu hụt đã hỗ trợ chút ít cho giá thép tấm. Nhu cầu tiêu thụ thép ống đường kính lớn Nga trong Q3 và Q4 đã hỗ trợ thị trường thép tấm.

Tuy nhiên, đối với tháng 12, tâm lý thị tường không lạc quan. Trong viễn cảng tốt nhất, giá thép tấm vẫn không đổi do  thu mua chậm chạp hướng về cuối năm.

Giá thép cây miền bắc Trung Quốc ổn định trước hội nghị APEC 

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc duy trì ổn định hôm thứ sáu trước cuộc họp thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (5-11/11) ở Bắc Kinh. Nhiều người cho biết một số biện pháp kiểm soát việc sử dụng xe tải ở Bắc Kinh cũng đã được áp dụng từ ngày 01/11 và rằng hoạt động thu mua thép đã thu hẹp lại một cách đáng kể so với những ngày trước đó.

Trên thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt với giá không đổi từ 2.740-2.750 NDT/tấn (448-450 USD/tấn) trọng lượng thực tế và VAT 17%. Còn so với tuần trước đó,  mức giá này chỉ tăng khiêm tốn 30 NDT/tấn.

Các đại lý đã tăng cường bán ra từ đầu tuần trước nhằm giảm bớt lượng hàng tồn kho và giảm sức ép doanh số cho tháng 11. Bắc Kinh yêu cầu phải dừng việc thi công một vài dự án xây dựng ở trong và xung quanh thủ đô trong suốt thời gian diễn ra hội nghị APEC, trong khi đó các biện pháp kiểm soát xe tải đã được áp dụng suốt 10 ngày đầu tháng 11.

Trong khi đó, những nhà tiêu thụ thép trực tiếp cũng tích cực thực hiện việc tái tích trữ trong tuần trước để chuẩn bị cho nhu cầu của họ trong suốt hội nghị, giúp hỗ trợ cho thị trường giao ngay tăng nhẹ.

Kết quả là, tồn kho tại các đại lý tiếp tục giảm trong tuần trước. Vào thứ Sáu tuần trước, theo nhà cung cấp thông tin Mysteel ở Thượng Hải, thép cây tồn kho tại thị trường Bắc Kinh giảm 25.400 tấn tức 9% so với tuần trước đó còn 264.000 tấn.

Nhiều người dự đoán sẽ không có sự thay đổi nào về giá vào đầu tháng 11 bởi vì hoạt động thu mua sẽ chậm lại do diễn ra hội nghị. Một vài đại lý thuộc nhà nước đã lên kế hoạch đóng cửa văn phòng của họ từ ngày 7-12/11.

Một vài người vẫn tỏ ra bi quan do tồn kho có khả năng gia tăng và giá giao sau suy yếu. 

Giá HRC Nga tăng 22 USD/tấn nhờ nhu cầu tiêu thụ mạnh

Các nhà máy HRC Nga đã thành công trong việc tăng giá thép cuộn tháng 11 thêm 940-1.000 Rub/tấn (22-24 USD/tấn). Gía tăng là cần thiết để bù đắp lại suy yếu của đồng Rub cộng với nhu cầu tiêu thụ từ ngành thép ống tốt, cho phép các nhà máy băng chuyền sản xuất công suất cao.

Đối với các khách hàng Maxcova, giá thép cuộn tháng 11 đã tăng lên mức 25.430-25.600 Rub/tấn (604-608 USD/tấn) đối với loại 2mm và 24.760-24.900 Rub/tấn (588-591 USD/tấn) đối với loại 4mm đã tính phí giao hàng. Nếu không tính VAT 18%, các mức giá này tương đương 21.550-21.690 Rub/tấn (512-515 USD/tấn) và 20.980-21.100 Rub/tấn (488-501 USD/tấn) CPT Maxcova.

Phần lớn các nhà phân phối đã chấp nhận giá mới mặc dù lợi nhuận ít ỏi trong 2 tháng qua.

Platts tăng giá cuộn và tấm cán nóng 2-4mm nội địa Nga hàng tuần lên mức 21.000-21.620 Rub/tấn (499-513 USD/tấn) và 20.400-21.020 Rub/tấn (484-499 USD/tấn ) CPT Maxcova, tăng từ mức 20.090-20.670 Rub/tấn (483-497 USD/tấn) ( tỷ giá hối đoái ngày 24/10) và 19.490-20.070 Rub/tấn (468-483 USD/tấn) cách đây 1 tuần.

Mặc dù định giá tính bằng đồng Rub đã tăng 950 Rub (22 USD/tấn) trong tuần do sự mất giá của đồng tiền Rub. Tuy nhiên, định giá thép tính bằng đồng dolla tăng ít hơn, chỉ với 16 USD/tấn.

Về sản lượng CRC tháng 11, các nhà máy đã tăng thành công thêm 900 Rub/tấn (21 USD/tấn) so với tháng trước, với nguyên liệu 1mm hiện tại được bán tại mức 23.400-23.500 Rub/tấn (555-557 USD/tấn) CPT Maxcova. Với thuế VAT, CRC sẽ đạt mức 27.610-27.730 Rub/tấn (654-657 USD/tấn).

Tuy nhiên, mặc dù mức tăng 4.5% trên tháng nhờ sự suy yếu của đồng Rub, giá trị CRC tính bằng đồng dolla đã giảm 20 USD/tấn kể từ đầu tháng 10.

Giá nhập khẩu phôi tấm giảm ở Đông Á do thép thành phẩm suy yếu 

Các chào giá phôi tấm ở Đông Á đã sụt giảm dưới 500 USD/tấn CFR do niềm tin suy yếu và giá thép thành phẩm thấp. Các nhà cung cấp nhìn chung đang đặt mức giá mục tiêu 510-530 USD/tấn CFR Đông Á trong tháng trước.

“Thị trường rất xấu”, một thương nhân Hàn Quốc cho biết, và nhấn mạnh rằng nguồn cung dường như hạn chế hơn do một vài nhà máy CIS đã rút khỏi thị trường. Các nhà kinh doanh người Đài Loan cho biết họ nghe nói chào giá  480-485 USD/tấn CFR cho phôi tấm Indonesia và Nga, phôi tấm Indonesia nghe đâu cũng được chào giá 490-495 USD/tấn CFR Ấn Độ.

Phôi tấm Nhật Bản được chào giá 490-495 USD/tấn CFR Đài Loan. “Việc phân bổ phôi tấm của Nhật rất hạn chế”, một thương nhân cho biết. Ông cho hay chào giá của Nga chỉ dưới 500 USD/tấn CFR.

Các nhà cán lại Đài Loan thấy thật khó để chấp nhận những chào giá này bởi vì họ không thể bù đắp chi phí sản xuất ở mức giá HRC hiện tại. Họ đang đưa ra giá mua 460 USD/tấn CFR, giảm từ mức giá mua 470-480 USD/tấn CFR của tháng trước, với giá HRC Trung Quốc suy yếu hơn gây sức ép lên thị trường thép thành phẩm.

Một nhà kinh doanh trong khu vực cho biết khách hàng muốn mua phôi tấm với giá 460 USD/tấn CFR, nhưng các nhà cung cấp không đồng ý. Ông cho hay các nhà cán lại Indonesia không tích cực mua phôi tấm bởi vì họ muốn đợi xem giá suy yếu hơn.

Platts định giá phôi tấm nhập khẩu vào Đông Á giảm còn 480-490 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, giảm từ 500-510 USD/tấn của tháng trước. 

Giá xuất khẩu thép cây Nam Âu bình ổn do đồng Euro suy yếu

Các nhà máy thép cây Nam Âu đã giữ bình ổn giá chào xuất khẩu trong 10 ngày qua do chuẩn bị đàm phán sản lượng tháng 12, với đồng Euro suy yếu giữ giá cả cạnh tranh.

Trong khi người mua dự thầu giá thấp 405 Euro/tấn FOB Ý hoặc Tây Ban Nha, các nhà máy tiếp tục giữ giá chào ổn định ở mức 415  Euro/tấn FOB Địa Trung Hải. Một thương nhân cho biết giá giao dịch tối thiểu là 412 Euro/tấn FOB Địa Trung Hải tới Algeria.

Tuần này, có ít nhà máy chào bán hơn do đang chờ giá phế tháng 11.

Giá thép cây xuất khẩu Ý và Tây Ban Nha vẫn cạnh tranh hơn giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ do đồng Euro suy yếu. Tuy nhiên, các nhà máy Trung Quốc có thể bán hàng tới hầu hết các thị trường MENA và Algeria trong khi Bắc Âu vẫn là nơi đến suy nhất cho các nhà máy Châu Âu.

Các nguồn tin Ý xác nhận rằng họ đang lo lắng về việc chào  mua lại nhà máy Piombiono ở Lucchini của Cevital, Algeria  và việc  lắp đặt 2 nhà máy EAF. Nếu kế hoạch này được thúc đẩy thì các nhà máy sản xuất thép dài ở Bắc Ý có thể phải gặp khó khăn do các đối thủ của họ được cơ hội tấn công vào thị trường Algeria.

Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ chật vật với nhu cầu ở thị trường Mỹ 

Giá HDG Ấn Độ xuất tới Mỹ vẫn còn thấp trong tuần trước do nhu cầu trì trệ. Giá giao dịch cho thép cuộn mềm dày 0.3mm phủ 90 grams kẽm trên một mét vuông loại thường từ Ấn Độ tuần trước dao động từ 865-880 USD/tấn CFR, trong đó phí vận chuyển là 50-60 USD/tấn cho những lô hàng vận chuyển tháng 12.

“Các khách hàng người Mỹ đang bận rộn nộp khai báo thuế trước cuối năm và không muốn thêm bất kỳ hàng tồn kho nào vào báo cáo kế toán của họ”, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho biết. Ông này gần đây đã bán khoảng 6.000 tấn HDG dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông tới các khách hàng thường xuyên với giá 865-880 USD/tấn. “Giá khác nhau tùy thuộc vào cảng đến là bờ đông hay tây”, ông giải thích.

Platts nhận được tin hai nhà máy Ấn Độ tuần trước đang gởi các nhân viên kinh doanh tới Mỹ với hy vọng sẽ đảm bảo có được đơn hàng mới trước lễ Tạ ơn. Nhu cầu thường gia tăng trong suốt vài tuần đầu tiên của tháng 01 và tiếp tục mạnh mẽ đến hết tháng 04, trước khi khách hàng nghỉ hè.

Tuy nhiên, giá xuất khẩu HDG Ấn Độ tới Mỹ đang bị áp lực bởi HDG Trung Quốc có giá rẻ hơn với độ dày hơn một chút. HDG Trung Quốc có độ dày từ 0.40mm-0.5mm phủ 100-120 gram kẽm trên một mét vuông gần đây được chào giá 760-780 USD/tấn CFR Mỹ.

Trong khi sức mua từ Mỹ và Châu Âu vẫn còn trì trệ thì các nhà xuất khẩu Ấn Độ tiếp tục trông ngóng về Châu Phi. Đại diện một nhà máy ở Delhi cho biết ông thường bán khoảng 2.000-3.000 tấn HDG 0.18mm-0.2mm dày 180 gram kẽm trên một mét vuông tới khách hàng thường xuyên của mình ở Châu Phi. Các khách hàng của ông ở Djibouti và Ethiopia hiện đang mua với giá 920-930 USD/tấn.

Giá HDG rẻ hơn từ Trung Quốc tới Châu Phi cũng đe dọa đến khối lượng xuất khẩu của Ấn Độ đến đó. HDG dày 0.19mm phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông từ Trung Quốc tới Đông Phi, gần đây đang được chào giá 880 USD/tấn. 

Giá thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn gặp nhiều thách thức

Mặc dù giá chào thép mạ trong nước và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 25-30 USD/tấn trong tháng 10, nhu cầu tiêu thụ vẫn suy yếu do tâm lý thị trường tiếp tục bị kìm hãm từ giá HRC giảm.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước giảm còn 760-780 USD/tấn xuất xưởng trong tuần qua trong khi giá niêm yết thép mạ màu PPGI 9002 đạt mức 860-890 USD/tấn xuất xưởng, cùng giảm 10 USD/tấn so với giá trước đó.

Trong khi đó, giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc tới các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gây áp lực lên nước này. Gía chòa HDG xuất khẩu 0.5mm giảm 10 USD/tấn trong tuần qua, còn 750-770 USD/tấn FOB trong khi giá chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm là 850-880 USD/tấn FOB, giảm cùng mức.

Mặc dù giá giảm nhưng người mua vẫn hoãn đơn hàng trước nhu cầu tiêu thụ từ các lĩnh vực tiêu dùng cuối thấp và dự báo giá còn giảm nữa. Các nhà máy thậm chí còn tiếp tục chiết khấu 10 USD/tấn tại mức giá giảm. Tuy nhiên, không có bất cứ tín hiệu nào về sức mua hồi phục trong thời gian ngắn tới. 

Mặc dù các nhà máy thép mạ hy vọng rằng việc giảm giá và chiết khấu sẽ kích cầu, với giá HRC giảm 10-15 USDE/tấn trong mấy tuần gần đây còn 570-585 USD/tấn xuất xưởng trong bối cảnh sức mua thấp đã gia tăng áp lực lên giá thép mạ.

Giá HRC Đông Á chịu sức ép từ chào giá thấp của Trung Quốc 

Giá nhập khẩu HRC Đông Nam Á vẫn còn bị sức ép trong tuần trước giữa bối cảnh một làn sóng chào giá rẻ từ Trung Quốc kéo dài.

Platts định giá HRC SS400 dày từ 3mm trở lên trung bình là 485 USD/tấn CFR Đông Á trong ngày thứ Sáu, thấp hơn 2,5 USD/tấn so với tuần trước đó.

Một nhà cán lại ở Việt Nam cho biết đã nhận được một chào giá thép cuộn SS400 được sản xuất bởi một nhà máy hạng trung của Trung Quốc là 483 USD/tấn CFR TP.HCM, mặc dù không có giao dịch nào được ký kết do người mua dự báo giá sẽ giảm sâu hơn nữa.

Đối với thép cuộn SAE1006 2mm, các giao dịch được thực hiện trong mức giá từ 500-504 USD/tấn CFR Việt Nam cho những lô hàng giao từ cuối tháng 12 đến tháng 01. Nhiều nhà máy đang cạnh tranh với nhau để bán vào Việt Nam, do lợi nhuận cao khiến một lượng lớn các lô hàng của Trung Quốc tràn vào.   

Các nhà cung cấp thép cuộn Nhật Bản đã tránh xa Việt Nam suốt vài tháng qua bởi vì họ không theo kịp mức giá của Trung Quốc và cũng không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc nhượng bộ. Thép cuộn SAE1006 2mm của Nhật được chào giá 540-545 USD/tấn CFR Việt Nam, mặc dù một nhà cán lại cho biết một người mua quan trọng không gặp khó khăn trong việc chốt giao dịch ở giá 535 USD/tấn.

Trong khi đó, các thương lượng giữa một nhà máy hàng đầu Trung Quốc và người mua Hàn Quốc diễn ra cho loại cán lại ở mức 510 USD/tấn CFR Hàn Quốc hồi đầu tuần mặc dù không rõ là liệu giao dịch này đã đạt được hay chưa. 

Gía phế vẫn chịu nhiều áp lực

Trong tuần qua, giá phế Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 5 USD/tấn, chốt tại mức 322.5 USD/tấn CFR do nhu cầu tiêu thụ vẫn yếu và thị trường phế Mỹ suy yếu gây áp lực lên các đàm phán giữa bên mua và bán.

Các tin đồn về giá giao dịch giảm đang ngày càng nhiều mặc dù nhiều nguồn tin đã được chứng minh là sai lệch. Tuy nhiên, tâm lý thị trường vẫn yếu với giá được dự báo có thể chạm mốc 300 USD/tấn CFR trong năm mới. Các bên bán hy vọng rằng mùa đông đang tới có thể thắt chặt nguồn cung phế và hỗ trợ thị trường.

Giá phế Bắc Á vẫn yếu trong tuần qua. Tại Nhật Bản, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua phế xuống 500 yên/tấn (4.6 USD/tấn) so với ngày 30/10 tại tất cả các xưởng sản xuất và bãi chứa, đẩy giá cắt giảm tổng cộng kể từ cuối tháng 9 lên mức 4.500-5.500 Yên/tấn. Các nhà máy mini khác cũng cắt giảm giá với các lô phế liệu được vận chuyển suôn sẻ tới các nhà máy nhờ xuất khẩu giảm. Gía giao phế H2 tới các xưởng của công ty Tokyo Steel tại Utsunomiya đạt mức 29.000 Yên/tấn  (265.3 USD/tấn ).

Các thương nhân Nhật Bản đang mua phế H2 tại vịnh Tokyo để xuất khẩu với giá 27.000 Yên/tấn, giảm 500 Yên/tấn so với tuần trước. Họ cho biết các bãi chứa phế liệu vẫn đang giữ mức hàng tồn cao do xuất khẩu giảm và do đó, các nhà máy mini có thể cắt giảm giá thêm nữa với tình hình vận chuyển phế vẫn trôi chảy.

Tại Hàn Quốc, các lô hàng nhập khẩu phế Nhật đã ít đi  do giá phế Nhật giảm, hàng tồn kho trong nước Hàn Quốc cao. Nhà máy Hyundai Steel đã dự thầu phế H2 Nhật Bản tại mức 26.000 Yên/tấn trpng tuần quam cùng mức với tuần trước đó, tuy nhiên, chưa có giao dịch nào diễn ra. 

Giá xuất khẩu phế Mỹ giảm với giá phế nhập khẩu vào Châu Á đạt mức 310-320 USD/tấn CFR trong ngày cuối tuần qua, giảm từ mức 320-330 USD/tấn tuần trước đó. Tại thị trường trong nước, giá phế Mỹ cũng giảm 20-30 USD/tấn trước khi bắt đầu tuần thu mua tháng 11.

 Giá phôi thanh Đông Á sụt giảm do phế suy yếu

Giá nhập khẩu phôi thanh Đông Á tuần trước vẫn còn bị sức ép do chi phí phế thấp hơn và nguồn cung phôi thanh cũng như thép thành phẩm giá rẻ của Trung Quốc vẫn đang tiếp tục tràn vào.

Các chào giá của phôi thanh không phải từ Trung Quốc sụt giảm 10 USD/tấn so với tuần trước đó còn 460-470 USD/tấn CFR. Còn chào giá phôi thanh loại 3sp/ps 150mm của Nga nghe nói là 460-465 USD/tấn CFR Đài Loan. Chênh lệch lớn giữa chào giá và đặt mua gây khó khăn cho việc thực hiện giao dịch.

Chào giá phôi thanh Trung Quốc cũng giảm. Cụ thể, chào giá ở mức 450-455 USD/tấn CFR Philippines trong tuần trước, so với 475 USD/tấn CFR trong suốt tuần ngày 15/10. Một giao dịch 5.000 tấn phôi thanh 100mm nghe nói được ký kết với giá 448 USD/tấn CFR Philippines trong tuần trước.

Khách hàng muốn đặt mua phôi của Trung Quốc ở mức giá 445 USD/tấn CFR. Một người khác cho biết những khách hàng người Philippines muốn đợi những bất ổn về giá quặng sắt cũng như sản lượng thép đi qua sau hội nghị APEC diễn ra ở Bắc Kinh trong tuần này.

Platts định giá nhập khẩu phôi thanh Đông Á giảm còn mức trung bình 465 USD/tấn CFR trong ngày thứ Sáu từ 472,5 USD/tấn  của tuần trước đó.

Phôi Trung Quốc quá rẻ đến nỗi một vài nhà máy lò hồ quang điện của Đông Á đã giảm hoạt động nấu chảy và cán phôi thanh để thay thế nhằm giúp giảm bớt chi phí. Một vài nhà máy cũng đã đặt mua thép cây Trung Quốc vì có giá rẻ hơn so với phôi thanh.

Thép cây chứa nguyên tố bo đường kính từ 16mm trở lên của Trung Quốc được bán với giá 425-430 USD/tấn CFR Hong Kong, trọng lượng thực tế trong suốt tháng 10.

Trong khi nhiều thương nhân cho biết khả năng gỡ bỏ giảm thuế xuất khẩu Trung Quốc cho thép chứa nguyên tố bo vào năm tới có thể hậu thuẫn cho giá phôi thanh và thép dài trong khu vực thì một giám đốc nhà máy Malaysia tỏ ra hồ nghi. Thậm chí với việc loại bỏ mức thuế 13% thì giá thép sẽ vẫn được chốt ở mức dưới 500 USD/tấn CFR, đây là mức giá mà nhiều nhà máy trong khu vực không thể đáp ứng. 

Người mua thép dây Mỹ cân nhắc giá chào nhập khẩu

Người mua thép dây Mỹ đang cân nhắc giá chào nhập khẩu rẻ hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ so với gía trong nước sau khi giảm 20 USD/tấn.

 Một người mua thép dây tại Midwest cho biết giá trong nước nhìn chung đã giảm 20 USD/tấn sau khi giá phế giảm 20 US/tấn. Gía thép dây chất lượng công nghiệp hiện đạt mức 610-620 USD/tấn xuất xưởng.

Một người khác dự báo rằng tình hình kinh doanh sẽ tốt hơn trong Q4 so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi  Ông đang tìm kiếm giá chào nhập khẩu cho các lô hàng giao tháng 1 và 2 thì đồng thời cũng đang chờ tình hình thị trường trong nước sẽ cải thiện như thế nào.

Giá thép dây di chuyển theo giá phế, nhưng dự báo thị trường sẽ bình ổn cho tới cuối năm.

Một người mua thép dây Midwest khác cho biết đã nghe thông tin các nhà máy trong nước hạ giá tháng 11 xuống 20 USD/tấn, kéo giá thép dây chất lượng công nghiệp xuống mức 620 USD/tấn xuất xưởng. Các nhà máy trong nước vẫn chưa nhận được nhiều đơn hàng do nguồn cung nhập khẩu từ Trung Quốc quá mức cũng như giá giảm theo giá nguyên liệu thô.

Một người mua tại Nam Mỹ cho biết vẫn chưa mua thép dây trong nước giao tháng 11. Lần cuối cùng Ông mua thép dây dạng lưới là vào đầu tháng 10 với giá 650 USD/tấn xuất xưởng. Ông cho biết chưa thể nói trước được giá sẽ thay đổi như thế nào, tuy nhiên, giá nhập khẩu đã giảm. 

Trong tuần qua, một người khác cho hay đã mua thép dây Thổ Nhĩ Kỳ giao cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2 với giá thấp hơn 10 USD/tấn so với tháng 9. Trong khi có nhiều nước cungx tìm cách đẩy mạnh nhập khẩu vào Mỹ thì trong tuần qua, giá chào nhiều nhất đến từ Thổ Nhĩ Kỳ.

Một người mua Midwest cũng cho biết đã nhận được nhiều giá chào nhập khẩu rất thu hút. Tuy nhiên, ông đang  trông chờ chênh lệch giá giữa thép nội địa và nhập khẩu là 60 USD/tấn.