Shagang tăng giá thép cây đầu tháng 11 lên 9 USD/tấn
Jiangsu Shagang Group, nhà sản xuất thép tư nhân lớn nhất của Trung Quốc, hôm 01/11 đã tăng giá xuất xưởng cho thép cây 10 ngày đầu tháng 10 lên 60 NDT/tấn (9 USD/tấn), đây là lần tăng giá đầu tiên của nhà máy kể từ cuối tháng 8. Ngoài ra còn do thị trường giao ngay phục hồi trong tuần qua khiến nhà máy có ý định kích thích thị trường bán lẻ bằng cách tăng giá xuất xưởng, mặc dù bất cứ khả năng phục hồi nào của giá bị hạn chế vì mùa đông đang đến gần.
Thép cây HRB400 16-25mm của Shagang tăng lên 2.060 NDT/tấn (325 USD/tấn) trọng lượng lý thuyết, gồm 17% VAT. Nhà máy đã không thay đổi giá cuộn trơn HPB300 ở mức 2.120 NDT/tấn gồm VAT.
Platts định giá thép cây đường kính 18-25mm trên thị trường giao ngay Thượng Hải thứ sáu tuần trước cao hơn 25 NDT/tấn (4 USD/tấn) so với tuần trước lên 1.910-1.930 NDT/tấn (302-305 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng lý thuyết và gồm 17% VAT.
Shagang thừa nhận rằng thật khó để nói giá bán lẻ có thể tăng bao nhiêu vì thị trường trong nước đang đối mặt với sức mua suy yếu cùng với sự sụt giảm của nhiệt độ.
Trước lần tăng mới đây, giá xuất xưởng thép cây của Shagang đã giảm tổng cộng 350 NDT/tấn từ ngày 01/9, cho thấy sự sụt giảm của giá thép cây giao ngay trên thị trường nội địa.
Thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Hai, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel tiếp tục được hỗ trợ bởi tồn kho ổn định ở mức 1.950-1.960 NDT/tấn (308-309 USD/tấn) trọng lượng thực tế gồm 17% VAT, bằng với thứ sáu tuần trước.
Theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải Mysteel, thép cây tồn kho ở Bắc Kinh tính đến thứ sáu tuần trước giảm 9,4% so với tuần trước hay 18.100 tấn còn 175.400 tấn.
Trong khi đó, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 01 trên sàn Shanghai Futures Exchange tăng 5 NDT/tấn (tức 0,28%) hôm thứ Hai chốt ở mức 1.787 NDT/tấn.
Phế khối lượng nhỏ Mỹ tăng giá do thu hút được khách hàng Ấn Độ
Gía phế khối lượng nhỏ Bờ Tây Mỹ tăng nhờ nguồn cung thắt chặt và khách hàng Ấn Độ ưa chuộng, dẫn tới niềm tin rằng thị trường đã chạm đáy.
Giá chào mua từ các khách hàng Ấn Độ là 150 USD/tấn FAS Bờ Tây Mỹ cho phế HMS khối lượng nhỏ. Phí vận chuyển là 40 USD/tấn so với mức phí 20 USD/tấn vận chuyển tới Đài Loan.
Chênh lệch giá xuất khẩu phế vào Ấn Độ và Đài Loan lớn do giá vào cảng Chennai của Ấn Độ là 190 USD/tấn CFR trong khi giá cao nhất tới Đài Loan là 150 USD/tấn CFR. Các nhà máy Mỹ nâng giá bán lên 155 USD/tấn CFR Đài Loan trong khi các nhà máy thép Đài Loan tìm kiếm giá dưới 150 USD/tấn CFR.
Platts tăng giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ HMS lên 130-150 USD/tấn FAS cảng LA từ mức 120-125 USD/tấn tuần trước. Xuất khẩu từ Bờ Tây Mỹ tới cảng Nhava Sheva Ấn Độ vẫn tiện lợi nhờ phí vận chuyển thấp.
Các nhà cán lại Ấn Độ “săn” CRC full hard nhập khẩu
Các nhà cán lại Ấn Độ đang “săn” CRC full hard (CRFH) nhập khẩu giá rẻ sau khi thuế tự vệ 20% áp cho HRC làm cho HRC quá đắt để dùng làm nguyên liệu đầu vào. Một nhà cán lại ở phía tây ước tính, hồi tháng trước các nhà nhập khẩu đã đặt mua khoảng 100.000 tấn CRFH.
Theo Joint Plant Committee, kể từ khi thuế tự vệ được áp dụng từ ngày 14/9 thì lượng HRC nhập về đã giảm 12,5% trong tháng 9 còn 330.400 tấn.
Một số nhà sản xuất thép mạ kẽm hiện đang chọn cách nhập khẩu CRFC thay vì HRC để sản xuất. “Bởi vì giá nhập khẩu CRFH giảm gần tương đương với HRC nên sẽ có lợi hơn để dùng loại full hard để thay thế”.
Chào giá nhập khẩu CRFH tuần trước là 310 USD/tấn CFR Mumbai, tương đương 349 USD/tấn khi thuế nhập khẩu 12,5% được áp dụng cho tất cả các loại thép dẹt. Mức giá này gần tương đương với chào giá HRC.
Chào giá nhập khẩu HRC SS4003mm là 285 USD/tấn CFR Mumbai trong tuần trước. Khi thuế hải quan 12,5% và thuế tự vệ 20% được tính vào thì giá này tương đương 377 USD/tấn, cao hơn loại CRFH 30 USD/tấn.
Ngoài ra, giá CRFH nhập khẩu đã và đang giảm trong vài tháng qua, và các nhà nhập khẩu cũng đang lên kế hoạch để thương lượng giảm thêm nữa. “Hồi tháng 9, tôi đã đặt mua khoảng 5.000 tấn CRFH của Trung Quốc với giá 320 USD/tấn CFR Mumbai, nhưng tháng này tôi sẽ thương lượng xuống còn 305 USD/tấn”, một nhà cán lại cho biết nhưng ông từ chối xác nhận người bán.
Giá CRC không gỉ Mỹ giảm, triển vọng thị trường không lạc quan
Thị trường CRC không gỉ Mỹ chứng kiến sự suy yếu trong tháng 10 trong khi triển vọng thị trường ít lạc quan hướng về cuối năm.
Thị trường nhìn chung im ắng trong tháng 10. Gía từ các nhà máy vẫn duy trì bình ổn nhưng phụ phí giảm dẫn tới giá giao dịch thấp hơn. Tuy nhiên, vài nhà máy cho rằng tiêu thụ vào năm sau sẽ tốt do các đơn hàng vào đầu năm đến nhiều dẫn tới triển vọng tốt cho những tháng tiếp theo.
Hàng nhập khẩu vẫn kém thu hút do rủi ro và chênh lệch giá không cao. Gía CRC 304 có thể giảm 3-5 cents/lb nhưng phí vận chuyển sẽ bù đắp lại phần này.
Platts giảm giá CRC không gỉ 304 và 316 xuống còn 89-91 cents/lb và 115-117 cents/lb. Gía giao dịch thép không gỉ 430 giảm còn 67-69 cents/lb. Tất cả các giá này tính theo giá xuất xưởng.
Posco duy trì giá thép cuộn không gỉ cho tháng 11
Posco đã thông báo hôm thứ Hai rằng sẽ duy trì giá bán trong nước cho HRC và CRC không gỉ austenite cho tháng 11. Nhà sản xuất thép dẹt không gỉ lớn nhất nước này đã nâng giá lên 100.000 Won/tấn (88 USD/tấn) hồi tháng 6, nhưng sau đó đã giữ giá không đổi kể từ đó.
Quyết định của Posco là nằm trong dự đoán của thị trường, vì giá niken đã dao động suốt vài tuần qua. Hơn thế, đang gần đến cuối năm nếu Posco giảm giá cho tháng 11 thì điều này sẽ làm suy giảm niềm tin thị trường. Do đó, công ty đã quyết định một lần nữa giữ giá không đổi.
Giá giao dịch bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt ở mức 10.135 USD/tấn hôm 30/10, giảm 340 USD/tấn so với một ngày trước đó. Giá niken tháng 10 đã cải thiện so với tháng 9 và dao động ở mức 10.000-10.700 USD/tấn.
Giá giao ngay cho CRC không gỉ của Hàn Quốc đã giảm khoảng 50.000 Won/tấn trong tháng 10 do sức mua yếu. “Khách hàng đang cố gắng giảm bớt hàng tồn của họ xuống càng thấp càng tốt trước cuối năm. Do đó nhu cầu sẽ vẫn trì trệ trong thời gian này”, một nhà bán lẻ ở Seoul nói.
Posco không thông báo chính thức giá bán hàng tháng cho thép cuộn không gỉ nhưng theo tính toán của Platts thì giá cơ bản cho HRC 304 vẫn ở mức 3,7 triệu Won/tấn (3.238 USD/tấn). CRC loại 304 có giá 3,97 triệu Won/tấn. Giá bán thực tế giữa các khách hàng khác nhau tùy theo điều kiện và điều khoản hợp đồng.
Nhu cầu tiêu thụ trì trệ mặc dù các nhà máy thép thanh thương phẩm Mỹ đã hạ giá
Thông báo giảm giá hồi giữa tháng của các nhà máy thép thanh thương phẩm Mỹ đã không dẫn tới được bất cứ sự thay đổi lớn nào trên thị trường. Hồi giữa tháng 10, các nhà máy Commercial Metals Co., Gerdau, Nucor và Steel Dynamics Inc. đã thông báo giảm giá xuống 25 USD/tấn.
Platts giảm giá thép thanh thương phẩm xuống còn 603-633 USD/tấn xuất xưởng cho thép tháng 11. Các nhà máy đã chiết khấu từ 10-40 USD/tấn, vẫn giống như hồi tháng trước. Chênh lệch giá nhập khẩu-nội địa lên đến 40-60 USD/tấn cho thép Mexico.
Thị trường ống đúc ổn định ở miền đông Trung Quốc
Giá ống đúc giao ngay ở thị trường bán lẻ miền đông Trung Quốc vẫn duy trì ổn định trong ngày đầu tuần sau khi hai nhà máy thép tròn đặc lớn trong khu vực duy trì giá phôi thép trong 10 ngày đầu tháng 11.
Tại Thượng Hải hôm thứ Hai, chào giá thị trường bán lẻ cho loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy ở miền đông phổ biến mức 2.650-2.700 NDT/tấn (418-426 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, bằng với ngày trước đó nhưng thấp hơn khoảng 25 NDT/tấn (4 USD/tấn) cách đây 10 ngày.
Một thương nhân cho biết triển vọng thị trường trong nước cho tháng này vẫn còn u ám, do các nhà máy ống thép đối mặt với sức ép ngày càng tăng từ sức mua thu hẹp khi mùa đông đang đến gần. Một số nhà máy ở tỉnh Sơn Đông đã hạ giá xuất xưởng của họ xuống 20-30 NDT/tấn trong ngày đầu tuần để thu hút người mua trước khi nhu cầu chững lại vì mùa đông.
Nhưng đồng thời khả năng giá giao ngay giảm sâu hơn rất hạn chế do giá thép tròn đặc khá ổn định và tồn kho thị trường thấp. Hôm 01/11, hai nhà sản xuất thép tròn đặc lớn thông báo họ sẽ duy trì giá bán của mình cho 10 ngày đầu tháng 11.
Thông báo này dẫn đến hai nhà máy thép tròn đặc lớn ở tỉnh Giang Tô là Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel đều giữ giá cho loại 20# 50-130mm ở mức lần lượt 2.060 NDT/tấn (325 USD/tấn) và 2.010 NDT/tấn (317 USD/tấn) xuất xưởng đầu tháng 11, gồm VAT.
Huaigang Special Steel, cũng ở tỉnh Giang Tô đã giảm giá cho các sản phẩm tương tự xuống 20 NDT/tấn còn 2.030 NDT/tấn (320 USD/tấn) gồm VAT cho cùng thời gian.
Hàng nhập khẩu và mối lo cuối năm gây áp lực cho giá thép dầm
Giá thép dầm vẫn gặp áp lực tại Mỹ do tiêu thụ thấp cuối năm và hàng nhập khẩu tràn vào ồ ạt. Platts giảm giá thép dầm bản rộng xuống còn 650-670 USD/tấn xuất xưởng từ mức 660-680 USD/tấn trong tháng 10. Các nhà máy chiết khấu thêm 20-40 USD/tấn cho hầu hết người mua.
Giá nhập khẩu đạt mức 520-550 USD/tấn giao bằng xe tải tại Bờ Đông và cảng Nam Mỹ trong khi giá từ Nga chỉ đạt mức 500 USD/tấn. Các nhà máy Ấn Độ đang tìm kiếm đơn hàng tại mức giá thấp hơn nữa. Người mua chuộng thép Q1 để tránh hàng tồn kho cuối năm.
Thậm chí với chênh lệch giá tới 150 USD/tấn thì người mua vẫn không muốn nhập thêm thép nhập khẩu. Họ thấy khó để duy trì hàng tồn kho nội địa và nhập khẩu.
Giá thép cuộn tiếp tục giảm trên thị trường Mỹ
Giá thép cuộn tiếp tục suy yếu trên thị trường Mỹ do các nhà máy nỗ lực ngăn ngừa lỗ vốn hơn nữa. Platts giảm giá HRC và CRC xuống còn 390-400 USD/tấn và 520-530 USD/tấn từ mức 390-410 USD/tấn và 520-540 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Các nhà máy vẫn đang chào bán CRC tại mức 530 USD/tấn nhưng không có nhiều đơn hàng. Theo dự báo thì mức giá 500 USD/tấn có thể bị phá vỡ. Trong khi đó, giá HRC giao ngay đã giảm còn 400 USD/tấn và dưới giá xưởng, thậm chí có giá ở gần mức 380 USD/tấn nhưng không chắc có nhiều người chào bán vậy không và khối lượng đơn hàng bao nhiêu. Nhiều nhà máy đang sẵn sàng chấp nhận chiết khấu thêm để thu hút đơn hàng.
Một trung tâm dịch vụ cho hay giá HRC đạt mức 380 USD/tấn trong khi CRC và thép mạ là 490 USD/tấn trong khi một nhà môi giới khác ở Midwest vẫn thấy CRC ở mức 550 USD/tấn nhưng cho đơn hàng 20 tấn và có thể mua tại mức 530 USD/tấn từ một nhà máy nội địa.
Platts giảm giá HDG tháng 11 xuống còn 560-580 USD/tấn từ mức 610-630 USD/tấn tháng 10. Các trung tâm dịch vụ vẫn đang đàm phán phụ phí với các nhà máy thép mạ do vài nhà máy như Nucor và SDI đã điều chỉnh phụ phí dựa vào phí kẽm thấp hơn trong khi số khác thì không.
Giá thép cây Châu Á duy trì ổn định
Hôm thứ Hai, giá thép cây Châu Á duy trì ổn định trong 7 ngày liên tiếp do các nhà máy Trung Quốc tiếp tục giữ chào giá của hộ ổn định để tránh bị lỗ nhiều hơn. Hôm 02/11, Platts định giá thép cây đường kính không đổi so với ngày trước đó và nằm ở mức
Ở Hong Kong, các nhà máy lớn của Trung Quốc tiếp tục giữ chào giá của họ không thấp hơn 270 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, hay tương đương 257 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 13 USD/tấn tới Hong Kong. Người mua đang đợi bên lề, trong khi các nhà máy do dự để giảm chào giá nhằm tránh bị lỗ nặng hơn nữa.
Trong khi đó, các nhà máy Trung Quốc đã duy trì chào giá tới Singapore ở mức 270 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 263 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển khoảng 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng không có giao dịch nào được ký kết ở mức giá này vì giá mà người mua đưa ra thấp hơn nhiều.
Các nhà máy xuất khẩu ngày càng bất đắc dĩ để bán với giá thấp do đang bị lỗ nặng. Tuy nhiên, người mua lại từ chối mua ở giá này và chỉ đưa ra mức giá 260 USD/tấn CFR, một mức giá mà các nhà máy không thể chấp nhận được.
Một nhà tích trữ Singapore cho biết ông không muốn mua nhiều vào lúc này vì tồn kho còn nhiều và dự báo giá sẽ giảm sâu hơn nữa.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh Biển Đen CIS bình ổn tại mức 263 USD/tấn FOB Biển Đen mặc dù giá có vẻ gần tăng.
Không có đơn hàng mới nào được chốt và tình hình thị trường rất trì trệ sau bầu cử do các nguồn tin thị trường chờ đợi giá phôi thanh CIS so với giá cạnh tranh từ CIS. Với giá phế tăng, giá phôi thanh CIS có thể đạt mức 270 USD/tấn FOB.
Giá gần đây đạt mức 263 USD/tấn do thiếu thanh khoản trong khi giá thị trường phổ biến ở mức 263-265 USD/tấn cho tới khi thị trường bình ổn.
Các nhà máy CIS cần các tín hiệu tốt từ Thổ Nhĩ Kỳ
Giá HRC Ukraina đã giảm 7.5 USD/tấn so với tuần trước. HRC Ukraina đạt mức 260-265 USD/tấn còn CRC là 320-325 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giao dịch HRC gần đây nhất đạt mức 270-275 USD/tấn FOB Biển Đen còn CRC đạt mức 330-335 USD/tấn nhưng rất khan hiếm.
Giá xuất khẩu thép cuộn CIS phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ giá quặng sắt, suy yếu 5 USD/tấn giữa đầu và cuối tháng 10 nhưng chủ yếu do sự tràn vào ồ ạt của HRC Trung Quốc. Gía chào gần đây giảm từ 272 USD/tấn FOB giữa tháng 10 xuống còn 264 USD/tấn FOB Trung Quốc. Gía thép cuộn cũng đã giảm theo giá phôi phiến CIS, đạt mức 230-235 USD/tấn FOB Biển Đen tuần này, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Triển vọng bầu cử gần đây tại Thổ Nhĩ Kỳ dự báo sẽ thúc đẩy các dự án đầu tư tái cấu trúc đã bị trì hoãn hàng tháng trời trước cuộc bầu cử. Điều này sẽ cung cấp động lực cho giá thép, ít nhất là tại Thổ Nhĩ Kỳ.
HRC Châu Á sụt giảm tới mốc thấp kỷ lục mới do thiếu đơn đặt hàng
Giá giao ngay của HRC ở Châu Á rớt xuống mốc thấp kỷ lục mới trong ngày đầu tuần, sau khi duy trì được 4 ngày vì thiếu đơn đặt hàng. Một số người vẫn không nhìn thấy ánh sáng phía cuối đường hầm trong nhiều tuần liên tiếp của tháng 10, vì không có dấu hiệu cải thiện của sức mua.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 260-265 USD/tấn FOB, mức giá trung bình 262,5 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước. Đây là một mốc thấp mới nữa kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 01/2006. Trong khi đó, HRC Q235 5.5mm tại thị trường Thượng Hải được định giá 1.860-1.880 NDT/tấn (294-297 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, bằng với thứ Sáu tuần trước.Giá giao dịch của Trung Quốc cho HRC SS400 3.0mm là 260-265 USD/tấn FOB. Một nhà máy ở miền bắc chào giá 265 USD/tấn FOB, nhưng vẫn sẵn sàng bán với giá 260 USD/tấn FOB cho những đơn hàng trên 5.000 tấn.
Một nhà máy khác sẵn sàng bán HRC loại thương phẩm với giá 275 USD/tấn CFR Hàn Quốc, để giao ngày 20/12 là trễ nhất, với phí vận chuyển khoảng 10 USD/tấn.
“Tôi cảm thấy giá xuất khẩu của Trung Quốc có thể vẫn duy trì ở mức 255-260 USD/tấn FOB trong tháng này. Có lẽ một số nhà máy nhỏ muốn bán với giá 255 USD/tấn FOB, nhưng ai mà biết giá ngày mai sẽ ra sao”, một thương nhân Hàn Quốc cho biết.
Chào giá cho thép cuộn SAE1006 2.0mm duy trì mức 273-280 USD/tấn CFRViệt Nam.
Định giá HRC EU
Platts vẫn giữ nguyên giá HRC Bắc Âu không đổi tại mức 330-340 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Thị trường nhập khẩu và Nam Âu dường như đã bình ổn trong khi giá tại Tây Bắc Âu đạt mức 330 Euro/tấn. Tuy nhiên, áp lực vẫn tồn tại dựa vào chênh lệch giá với Nam Âu mặc dù người mua do dự trữ hàng tồn cao. Các nhà máy lớn vẫn có thể chào bán tại mức 340 Euro/tấn nhưng các nhà máy Bắc Âu có giá gần mứ 330 Euro/tấn. Gía tại Trung và Đông Âu là 320-330 Euro/tấn.
Trong khi đó, giá nhập khẩu bình ổn tại mức 300 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng lại một lần nữa rất kém thu hút do các nhà môi giới chỉ mua số lượng nhỏ nhất có thể.
Feng Hsin tăng giá thép cây do phế đắt hơn
Feng Hsin Iron & Steel đã nâng giá niêm yết thép cây lên 200 Đài tệ/tấn (9,2 USD/tấn) vì giá mua phế cao hơn. Công ty cũng đã tăng giá mua phế lên 200 Đài tệ/tấn trong tuần này.
Đây là lần đầu tiên trong gần một tháng Feng Hsin điều chỉnh cả giá thép cây và giá mu phế, sau khi giữ giá không đổi trong ba tuần liên tiếp trước đó. Với những lần điều chỉnh gần đây nhất, giá niêm yết trong nước của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm đã nhích lên 10.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Nhà máy cũng đang mua phế với giá 4.200 Đài tệ/tấn cho phế HMS 1&2 80:20.
“Giá phế nhập từ Mỹ, Nhật Bản hay từ các nhà cung cấp trong nước cũng đều tăng. Vì vậy chúng tôi phải trả nhiều hơn để có được nguyên liệu. Bên cạnh đó nguồn cung phế thường hạn chế vào mùa đông vì vậy công ty cần phải theo dõi thị trường chặt chẽ hơn và điều chỉnh giá mua của công ty khi cần đảm bảo việc giao hàng ổn định.
Feng Hsin mua hơn một nửa phế từ các nhà cung cấp trong nước và còn lại là nhập từ nước ngoài trong đó có của Mỹ và Nhật. “Phế Nhật thường được bán ở mức giá cao hơn và khối lượng phế HMS thường bị hạn chế. Nhưng những ngày này giá phế của Nhật đã trở nên cạnh tranh hơn so với phế của Mỹ, vì vậy ngày nay chúng tôi không thích.
Đồng thời, các nhà máy thép cây ở miền nam Đài Loan cũng đã tăng giá niêm yết cho thép cây thêm 200 Đài tệ/tấn lên 10.200 Đài tệ/tấn. Người mua đã và đang đặt các đơn hàng sau thông báo giá mới, có lẽ là vì sợ giá sẽ tăng một lần nữa trong những tuần tới.
Tâm lý thị trường phôi thanh CIS suy yếu sau bầu cử Tổng thống
Triển vọng giá phôi thanh Biển Đen bình ổn trong ngày đầu tuần nhờ cuộc bầu cử thành công với phần thắng thuộc về Recep Tayyip Erdogan của đảng AKP đã đẩy giá đồng Lira tăng trở lại và giúp bình ổn khu vực.
Trong khi không có đơn hàng mới nào được chốt thì thị trường cũng có dấu hiệu bình ổn hơn trong tuần. Gía chào từ CIS đạt mức 270 USD/tấn FOB tùy thuộc vào động thái của Trung Quốc và triển vọng kinh tế tại Thổ Nhĩ Kỳ. Gía chào xuất khẩu từ Trung Quốc đã tăng 10 USD/tấn trong mấy tuần qua sau khi sản lượng cắt giảm với giá chào đạt mức 255-260 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các nguồn tin nghi ngờ rằng sản lượng phôi thanh giảm và giá chào cao từ Trung Quốc được duy trì nếu giá phế vẫn cao.
Trong ngày hôm qua, Platts vẫn duy trì giá phôi thanh tại mức 263 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi giá có thể tăng vào tuần này thì cũng có nguồn tin cho rằng giá có thể chuyển mình giảm lại. Tuy nhiên, thị trường hiện tại nhìn chung bình ổn.
HDG xuất khẩu của Trung Quốc tiếp tục lao dốc suốt tháng 10
Giá xuất khẩu của HDG Trung Quốc tiếp tục xu hướng lao dốc trong suốt tháng 10 cùng với sự sụt giảm của HRC và CRC. Platts định giá HDG DX51D 1.0mm phủ 120 grams trên một mét vuông trong khoảng 360-365 USD/tấn FOB hôm 02/11, giảm 27,5 USD/tấn so với đầu tháng 10.
Theo các nhà xuất khẩu, chào giá phổ biến từ các nhà máy khoảng 370 USD/tấn FOB, nhưng giá giao dịch thực tế có thể được thương lượng giảm xuống khoảng 360-365 USD/tấn FOB miễn là có đơn hàng.
Nguồn tin từ một nhà máy ở miền bắc nghe nói một giao dịch được thực hiện ở mức 370 USD/tấn FOB cho HDG phủ 180 gram kẽm trên một mét vuông, và 350 USD/tấn FOB cho loại phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh sở dĩ có mức giá này là do người mua đã nhận được sự hỗ trợ tài chính từ nhà máy, trong khi người mua bình thường không thể có được mức giá thấp này và sẽ phải trả ít nhất là 360 USD/tấn FOB hay cao hơn.
Đơn hàng ở nước ngoài cho HDG đã cải thiện nhẹ từ cuối tháng 10, nhưng nhu cầu vẫn không đủ mạnh để giá phục hồi. Hơn thế nữa, sự sụt giảm liên tiếp của giá HRC và CRC đã và đang gây sức ép cho giá HDG.
Theo Platts, giá xuất khẩu cho CRC SPCC 1.0mm đã giảm 15 USD/tấn trong suốt tháng 10 tới mức trung bình 292,5 USD/tấn FOB, trong khi giá HRC SS400 3.0mm đã giảm 8 USD/tấn FOB trong cùng thời gian này xuống còn 264,5 USD/tấn FOB.
Tại thị trường Thượng Hải hôm thứ Hai, HDG DX51D 1.0mm đang được giao dịch phổ biến ở mức 2.530-2.590 NDT/tấn (399-409 USD/tấn) gồm 17% VAT, giảm 145 NDT/tấn so với đầu tháng 9.