Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 03/11/2017

Các nhà máy Midwest kiên quyết mua phế chất lượng cao giảm 10 USD/tấn

Các nhà máy Midwest vẫn duy trì mức giá chào mua giảm 10 USD/tấn cho phế chất lượng cao trong khi không đổi cho phế cũ. Giá phế vụn và cắt hầu như ổn định ở các vùng MidwestNortheast.

Hầu hết các nhà máy thép chào mua phế liệu chất lượng cao với mức thấp hơn tháng trước 10 USD/tấn vì cho rằng nguyên liệu này không thu hút trong tháng này dựa vào hàng dự trữ vẫn cao do các nhà máy bảo trì nhà xưởng. Một số nhà máy ở Ohio được cho là gặp khó khăn trong việc đảm bảo tất cả nhu cầu mua phế chất lượng cao của họ do vốn thấp. Tại Chicago, thị trường phế giao  dịch dưới 20 USD/tấn so với Detroit trong tháng 10, giá bán tháng này ổn định.

Việc giảm giá phế chất lượng cao đã rút ngắn khoảng cách giá với phế vụn tại Midwest. Tại Detroit, phế busheling số 1 giao dịch khoảng 330 USD/tấn và phế vụn là 270 USD/tấn. Tại một phần của Ohio, giá giao dịch hai mặt hàng trên là  350 USD/tấn và 285 USD/tấn.

Một nhà máy Đông Bắc đã xuất hiện vào cuối ngày thứ năm với giá chào phế cu giảm 10 USD. Một số thương nhân tin rằng giá phế cũ có thể gặp áp lực ngày càng gia tăng.

Tín hiệu thị trường xáo trộn. Mùa đông là một điều đáng sợ nếu bạn cần phế liệu và nhu cầu tổng thể vẫn còn tốt. Nguồn tin dự kiến ​​giao dịch tháng 11 sẽ kết thúc vào hôm nay (03/11).

Giá tấm mỏng Mỹ ổn định dù các đơn hàng chốt giá thấp

Giá HRC Mỹ tiếp tục ổn định dù các đơn hàng lớn chốt giá thấp. Platts tăng giá HRC Mỹ thêm 25 cents/tấn trong ngày thứ năm, đạt mức 619.50 USD/tấn.

Một trung tâm dịch vụ cho biết chưa nhà máy nào chào dưới 620 USD/tấn trong tuần này mặc dù hoạt động thị trường chậm chạp hơn. Cách đây 2 tuần, nhiều nhà máy tăng giá chào bán thêm 40 USD/tấn.

Một nguồn tin đang chào bán HRC tại mức 620 USD/tấn nhưng hoạt động thị trường suy yếu.

Trong khi phần lớn người mua báo cáo chào giá 620 USD/tấn thì vẫn đang tìm kiếm các nhà máy sẵn sàng bán 600 USD/tấn. Nhiều giao dịch chốt mức 600 USD/tấn trong ngày hôm qua với một nhà máy Mỹ báo cáo một đơn hàng hơn 500 tấn tại mức 600 USD/tấn. Một trung tâm dịch vụ cho hay đã mua hơn 3.000 tấn tại mức 600 USD/tấn.

Platts giảm giá CRC xuống 25 cents/tấn so với thứ tư còn 805.75 USD/tấn trong ngày thứ năm.

Một trung tâm dịch vụ đang tìm kiếm giá chào CRC ở mức 810-820 USD/tấn nhưng giá dưới 800 USD/tấn tiếp tục được nghe trong tuần này.

Các nhà xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng tăng giá

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng tăng giá thép dây trước sức ép tiêu thụ thấp tại các thị trường xuất khẩu truyền thống.
Giá chào thép dây xuất khẩu ở mức 545-550 USD/tấn FOB trong mấy ngày gần đây tùy vào khối lượng đơn hàng và nơi đến trong khi đối thủ chào giá thấp hơn ít nhất 10 USD/tấn. Trong khi đó, giá niêm yết thép dây nội địa ổn định ở mức 555-565 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước tùy vào khu vực.

Đồng Lira giảm giá và tiêu thụ nội địa tương đối mạnh đang hỗ trợ giá nhưng nhu cầu tiêu thụ thấp tại các thị trường xuất khẩu lớn và cạnh tranh gay gắt gây áp lực cho các nhà máy xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ.

Khối lượng thép dây xuất khẩu giảm mạnh trong tháng 9. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu 72.750 tấn thép dây trong tháng 9, thấp hơn mức 96.600 tấn trong tháng cùng kỳ năm ngoái và 19% so với tháng 8 năm nay.

Israel vẫn là thị trường nhập khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 9 với 23.480 tấn trong khi xuất khẩu thép dây tới các nước Trung Đông vẫn ở mức thấp so với năm ngoái.

Singapore trở thành khách hàng lớn khác trong tháng 9 cho tháng thứ ba liên tiếp, đạt 12.600 tấn mặc dù không nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ trong cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tới 2 nước trên chiếm 50% sản lượng xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng.

Thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ gặp áp lực cạnh tranh từ CIS

Giá nhập khẩu cạnh tranh từ CIS tiếp tục gây áp lực cho thị trường HRC nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ.

Một trung tâm dịch vụ cho biết đã nghe chào giá thấp từ CIS mặc dù chưa có ý định đặt mua.

Giá chào từ CIS là 555-565 USD/tấn CFR trong mấy tuần gần đây, với vài nhà máy cán lại và ống thép mua ở mức này. Chào giá thấp hơn các mức này 15 USD/tấn. Một thương nhân Dubai cho biết chào giá tầm 550 USD/tấn CFR trong khi các nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá 520-525 USD/tấn FOB có sẵn từ một nhà máy. Một nhà máy Nga chào bán tới ASEAN trong mấy ngày gần đây thông qua một thương nhân.

Các giao dịch gần đây ở Thổ Nhĩ Kỳ giảm còn 570-575 USD/tấn xuất xưởng so với giá chào 580-590 USD/tấn xuất xưởng.

Một nhà tiêu thụ cuối dự báo giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ Kỳ có thể xuống mức thấp 540-550 USD/tấn trong mấy tuần tới nếu các nhà máy CIS tiếp tục chào bán cạnh tranh.

Trong khi đó, giá xuất khẩu giảm còn 560-565 USD/tấn FOB cho các đơn hàng lớn do giá chào mua từ Châu Âu ở mức thấp 540-545 USD/tấn FOB. Nhập khẩu HRC vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái lên 3.46 triệu tấn trong 9 tháng đầu năm với lượng nhập khẩu từ Nga tăng mạnh.

Nga trở thành nhà cung cấp HRC lớn nhất cho Thổ Nhĩ Kỳ trong 9 tháng đầu năm với 1.72 triệu tấn, tăng 48% so với cùng kỳ năm ngoái trong bối cảnh giá chào cạnh tranh tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù giảm 14.8% nhưng nhập khẩu HRC Ukraina vào Thổ Nhĩ Kỳ đạt tổng cộng 288.000 tấn trong 9 tháng đầu năm, trở thành nhà cung cấp lớn khác cho Thổ Nhĩ Kỳ. Nhập khẩu từ hai nước này chiếm 58% tổng lượng nhập khẩu HRC Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn.

Một trong các nhà cung cấp lớn cho Thổ Nhĩ Kỳ tại Châu Âu là Pháp với 234.523 tấn trong 9 tháng, tăng mạnh 47% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi Braxin cung cấp 220.400 tấn, ổn định so với trước.

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định do người mua chờ đợi

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong ngày thứ năm liên tiếp tính tới hôm qua do người mua không quan tâm tới các giá chào cao hiện tại.
Platts vẫn duy trì giá thép cây BS500 16-20mm Trung Quốc tại mức 521-522 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với hôm thứ tư.

Tại Hồng Kông, giá chào thép cây 10-40mm Trung Quốc giảm 5 USD/tấn còn 540 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 12, tương đương 529 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 11 USD/tấn.

Chào giá thép cây Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ ổn định ở mức 530 USD/tấn và 535 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế, tương đương 524 USD/tấn FOB. Các nhà môi giới cho biết họ có thể mua bất cứ lúc nào họ cần nguyên liệu nhưng không ai trả mức này. Người mua tìm kiếm giá 510 USD/tấn CFR.

Một nhà môi giới Singapore cho biết giá mua lý tưởng của ông vẫn là 500 USD/tấn CFR nhưng giá tốt nhất ông có thể mua được là 515 USD/tấn CFR từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho lô hàng lớn 50.000 tấn.

Xét về giá mua 515-520 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết từ một nhà môi giới, một nhà máy phía đông cho biết chỉ cân nhắc bán giá trên 530 USD/tấn CFR.

Thị trường xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định

Các nhà máy HRC Trung Quốc giữ nguyên giá chào bán xuất khẩu ngày thứ ba liên tiếp tính tới hôm qua nhưng khối lượng giao dịch thấp. Platts giữ nguyên giá xuất khẩu HRC SS400 3.0mm tại mức 544-546 USD/tấn FOB Trung Quốc so với thứ tư.
Giá cùng loại ở mức 554-556 USD/tấn CFR Đông Á, không đổi so với thứ tư. Tại sàn giao ngay, giá HRC Q235 5.5mm giảm 10 NDT/tấn còn 3.980-4.000 NDT/tấn (602-605 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.

Hầu hết các nhà máy Trung Quốc tiếp tục chào bán HRC SS400 tại mức 550-560 USD/tấn mặc dù một nhà máy phía đông giảm gái chào xuống 5 USD/tấn còn 555 USD/tấn FOB trong ngày thứ năm. Không ai quan tâm tới việc mua hàng lúc này.

Một thương nhân Thượng Hải vẫn cho rằng giá có thể giao dịch là 545 USD/tấn FOB cho loại trên.

Trong khi đó, một nhà máy Hàn Quốc chào bán thép cuộn SAE tại mức 580 USD/tấn FOB Hàn Quốc giao tháng 12 (phí vận chuyển 10 USD/tấn từ Hàn Quốc tới Việt Nam). Giá chào hiện tại thấp hơn giá tháng 10 khoảng 10 USD/tấn.

Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đang chào SAE1006 tại mức 565 USD/tấn CFR Việt Nam.

Các nhà máy cạnh tranh nhau gây áp lực cho giá thép cuộn Biển Đen

Giá xuất khẩu HRC Nga giảm 10 USD/tấn xuống còn 530 USD/tấn FOB Biển Đen.
Đơn hàng mới nhất từ Severstal chốt ở mức 540 USD/tấn FOB St Petersburg nhưng một nhà máy khác chào bán giá 530 USD/tấn FOB Biển Đen tới Lebanon, Tunisia và Ai Cập trong khi có tin giá chào 525 USD/tấn FOB tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Một thương nhân cho biết các nhà máy dường như còn nhiều thép tháng 11 chưa bán nên mới giảm giá. Vấn đề là niềm tin thị trường quá lạc quan về nhu cầu tiêu thụ trong nước và để quá trễ để có thể xuất khẩu nên bây giờ còn nhiều hàng tồn. Việc liên tục cắt giảm giá làm mọi người sợ hãi và không ai muốn mua, một thương nhân Châu Âu cho hay.

Ông ngạc nhiên rằng thị trường suy yếu trong khi có các nhân tố hỗ trợ chẳng hạn như cắt giảm thép ở Trung Quốc. Tuy nhiên, tháng 11 vốn là thời điểm tiêu thụ suy yếu.

Một thương nhân Châu Âu cho biết giá 535 USD/tấn FOB là giá có thể giao dịch lúc này và thị trường im ắng do các nhà máy khác chờ đợi một nhà máy bán hết thép còn của tháng 11.

Tại thị trường cán nguội, CRC Ukraina được chào ở mức 580 USD/tấn FOB Biển Đen tới Bắc Phi. Các nguồn tin cho biết sẽ còn đơn hàng chốt ở mức giá 575-580 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi giá chào phôi phiến là 480 USD/tấn FOB.

Platts giảm giá HRC CIS xuống 5 USD/tấn còn 530-535 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi CRC giảm cùng mức xuống 575-585 USD/tấn FOB.

Các nhà máy phôi thanh CIS giảm giá để tăng cạnh tranh

Các nhà máy phôi thanh CIS đã bắt đầu giảm giá để tăng tính cạnh tranh so với phôi thanh Iran và Braxin.
Chào giá phôi thanh Iran ở mức 480-485 USD/tấn CFR tới Thổ Nhĩ Kỳ. Do đó, các nhà máy CIS cần giảm giá trong mấy ngày tới để cạnh tranh, một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho hay.

Phôi thanh Iran và Braxin có sẵn ở mức 450-460 USD/tấn FOB, và một đơn hàng lớn 40.000-50.000 tấn nghe đồn chốt ở mức 475 USD/tấn CIF tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Một thương nhân cho biết các nhà máy Trung Quốc cũng đột nhiên chào bán phôi thanh, cản trở cơ hội tiếp cận thị trường Đông Nam Á của các nhà máy CIS. Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cũng nhận thấy sự cạnh tranh từ Ả Rập Saudi, Qatar và ASEAN.

Thậm chí với chi phí chuyển đổi 120 USD/tấn tính trên giá phế 310 USD/tấn cộng với phí vận chuyển tới cảng và lợi nhuận thì các nhà máy vẫn có thể giảm giá phôi thanh. Giá phế Nga gần bằng giá phế chuẩn Thổ Nhĩ Kỳ.

Một nhà máy Nga đang chào tại mức 465 USD/tấn FOB Biển Đen. Nhà máy này cho biết không thể bán được giá 470 USD/tấn FOB trong tuần này. Thị trường đang có xu hướng suy yếu nhưng chưa có giao dịch nào chốt dưới 470-475 USD/tấn FOB.

Một đơn hàng phôi thanh CIS chưa rõ khối lượng được bán tới một nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ trong mấy ngày gần đây tại mức 486 USD/tấn CIF Marmara, tương đương 468-470 USD/tấn FOB Biển Đen. Tuy nhiên, giá này chưa được người mua chấp thuận do thị trường tiếp tục suy yếu.

Một thương nhân Châu Âu cho biết các nhà máy CIS có cơ hội bán tại mức 470 USD/tấn FOB Biển Đen cách đây 2-3 tuần nhưng quyết định chờ.

Tại Ai Cập, sự sụt giảm đột ngột của giá chào bán phôi thanh dẫn tới chào mua chỉ ở mức 475 USD/tấn CIF. Chào mua tới Ai Cập hiện ở mức 475-480 USD/tấn CFR.

Platts vẫn duy trì giá phôi thanh CIS tại mức 465 USD/tấn FOB Biển Đen vào hôm qua, ổn định so với thứ tư nhưng giảm 20 USD/tấn so với hôm thứ hai. 

Giá nhập khẩu HRC vào EU dự báo giảm, thu hẹp chênh lệch với giá nội địa

Trong bối cảnh EU áp thuế chống bán phá giá cho HRC nhập khẩu dẫn tới giá nhập khẩu giảm, chênh lệch giá nội địa Bắc Âu và nhập khẩu đã rút ngắn nhanh chóng.
Mức chênh lệch hiện tại là 10 Euro/tấn cho thấy hàng nhập khẩu không thu hút, có thể thúc đẩy hy vọng tăng giá trong khu vực.

Từ năm 2011-tháng 8/2017, chênh lệch giá ở mức trung bình 18.60 Euro/tấn nhưng biến động mạnh. Hồi tháng 11/2014 mức chênh lệch chỉ 8.50 Euro/tấn trong khi hồi tháng 4/2011 tới hơn 70 Euro/tấn.

Khối lượng nhập khẩu và dữ liệu giá cho thấy các lô hàng từ các nước thứ ba tới EU thay đổi theo sự thay đổi chênh lệch giá trên. Tuy nhiên, khối lượng nhập khẩu đã tăng mạnh kể từ năm 2015 dựa vào nguồn cung quá mức tại Châu Á trong khi nhu cầu tiêu thụ tại Châu Âu tăng.

Trong giai đoạn 2011-2014, chênh lệch giá nội địa và nhập khẩu vào EU là 20 Euro/tấn với lượng nhập khẩu vào EU xấp xỉ 500.000-550.000 tấn/tháng. Từ 2015-2017, chênh lệch giá tương tự và hàng nhập khẩu gần 700.000 tấn.

Trong khi mức chênh lệch dưới 10 Euro/tấn trong tháng 8 là bất bình thường thì thị trường HRC Tây Âu lại trải qua nhều lần trong 2 năm qua. Mỗi lần tương ứng với lượng nhập khẩu hàng tháng là 550.000-600.000 tấn.

Với thời gian sản xuất trung bình dưới 2 tháng, chênh lệch giá 8.29 Euro/tấn trong  tháng 9 và 5.29 Euro/tấn trong tháng 10, cho thấy mức nhập khẩu vào EU thậm chí thấp hơn trong tháng 11 và 12. Kể từ tháng 2 này, cứ giảm 1 Euro/tấn trong chênh lệch giá xuất xưởng và giá nhập khẩu thì lượng nhập khẩu tháng tới giảm khoảng 20.000 tấn.

Xu hướng này tiếp tục với cùng tốc độ trong 2 tháng tới, cho thấy lượng nhập khẩu sẽ dưới 500.000 tấn, giảm từ mức 557.000 tấn trong tháng 8 do chênh lệch giá tiếp tục rút ngắn hơn nữa. Khối lượng nhập khẩu tương tự trong tháng 1/2015 sau khi chênh lệch giá nội địa/nhập khẩu dưới 10 Euro/tấn vào cuối năm 2014.

Với thuế chống bán phá giá áp dụng cho Trung Quốc, Iran, Braxin, Nga, Ukraina và Serbia, nhập khẩu HRC vào EU dường như xuống mức được thấy trước năm 2015, dưới mức trung bình 660.000 tấn/tháng trong vòng 2 năm qua.