Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 03/3/2014

 Người mua vẫn thiếu sự quan tâm đối với ferrochome nhập khẩu vào Trung Quốc

 

Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ Ấn Độ và quặng chrome từ Nam Phi (48-52% Cr) được chốt lần lượt tại 84-86 cents/lb CIF Trung Quốc và 84-85 cents/lb CIF Trung Quốc trong ngày thứ sáu, cả hai đều không đổi so với tuần trước đó, do thiếu sự quan tâm của người mua đối với hàng nhập khẩu nên không có giao dịch cũng như yêu cầu hỏi mua nào trên thị trường.

Nhiều thương nhân trong nước đã nhận được rất ít yêu cầu đối với nguyên liệu nhập khẩu sau khi các nhà sản xuất thép không gỉ lớn giảm giá mua tháng 03 trong tuần trước. Đại diện một nhà sản xuất ở Ấn Độ cho biết các khách hàng Trung Quốc trả giá dưới 84 cents/lb CIF nhưng công ty ông không thể chấp nhận mức giá này. “Chúng tôi sẽ chào bán đến các nước khác vì mức giá đặt mua tại Trung Quốc quá thấp”, ông nói.

Jiuquan Iron & Steel và Baosteel hồi đầu tuần trước đều giảm giá mua ferrochrome tháng 03 xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) còn lần lượt 6.700 NDT/tấn và 6.800 NDT/tấn, còn Shanxi Taigang Stainless Steel đã xác nhận hôm thứ năm rằng họ cũng sẽ giảm giá mua trong tháng này xuống 50 NDT/tấn so với tháng 02 còn 6.600 NDT/tấn.

Nhiều người trong ngành dự báo giá giao ngay tại Trung Quốc sẽ giảm mạnh sau khi các nhà máy đưa ra giá mua tháng 03 nhưng mức giảm sẽ chỉ rất ít vì được hỗ trợ từ sự bình ổn của giá quặng chrome.

Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% basis Cr) Trung Quốc tại thị trường nội địa vẫn duy trì từ 6.750-6.900 NDT/tấn (83.5-85 cents/lb) trong ngày thứ Tư tuần trước. Mức giá này vẫn chưa phản ánh động thái giảm giá mua của các nhà sản xuất.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan nước này cho thấy nhập khẩu ferrochrome hàm lượng cacbon cao giảm 15,4% so với tháng 01/2013 còn 183.816 tấn trong tháng 01 do nguyên liệu nhập khẩu từ các nhà cung cấp chính như Nam Phi, Kazakhstan và Ấn Độ đều giảm trong tháng 01. 

Posco giữ giá thép cuộn không gỉ bình ổn trong tháng 03

Posco, nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất Hàn Quốc, đã thông báo hôm thứ sáu là sẽ giữ giá tháng 03 cho các sản phẩm thép cuộn không gỉ austenite ở trong nước. Nguyên nhân đằng sau quyết định này là do giá nguyên liệu ổn định và nhu cầu giảm nhẹ.

Theo đó, giá niêm yết của Posco cho HRC loại 304 sẽ vẫn giữ nguyên tại 2,9 triệu Won/tấn (2.716 USD/tấn) và CRC 304 có giá 3,17 triệu Won/tấn (2.969 USD/tấn). Còn HRC và CRC loại 430  sẽ vẫn duy trì lần lượt tại 2,14 triệu Won/tấn và 2,52 triệu Won/tấn.

Posco cho biết mặc dù nhu cầu xuất khẩu sang Châu Âu và Nhật Bản đang cải thiện nhưng công ty vẫn quyết định giữ giá tháng 03 ở trong nước không đổi bởi vì tốc độ phục hồi của thị trường thép cuộn không gỉ trong nước còn chậm.

Ngoài ra, thị trường thép dẹt không gỉ tại Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á vẫn còn ế ẩm từ sau Tết.

“Quyết định của Posco hôm thứ sáu đúng với những dự báo trước đây của nhiều người trong ngành vì các nhà máy khác ở Châu Á cũng đã xác nhận kế hoạch giữ giá tháng 03 không đổi”, một nhà bán lẻ ở Seoul nói.

Đơn cử như các nhà sản xuất lớn ở Trung Quốc như Shanxi Taigang Stainless Steel và Baosteel, Yusco của Đài Loan tất cả đều chọn cách giữ nguyên giá tháng 03. 

Giá thép cuộn không gỉ Trung Quốc ít thay đổi sau Tết

 

Giá thép cuộn không gỉ tại thị trường giao ngay Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc giảm nhẹ dao động từ 100-300 NDT/tấn (16-31 USD/tấn) trong tháng trước. Nhiều người trong ngành cho biết giá ít thay đổi từ sau Tết do sức mua vẫn còn yếu.

Giá giao dịch của HRC loại 304 dày 3mm và CRC loại 304 dày 2mm được duy trì lần lượt tại 14.400-14.600 NDT/tấn và 15.100-15.400 NDT/tấn kể từ ngày 28/02. Mức giá này thấp hơn 100-200 NDT/tấn so với ngày 30/01.

Hôm 30/01, CRC loại 430/2B dày 2mm không chứa niken có giá 8.200-8.400 NDT/tấn, cao hơn 100 NDT/tấn so với tháng 12, còn CRC loại 201/2B dày 1-2mm giảm 300 NDT/tấn so với tháng 12 còn 9.400-9.600 NDT/tấn. Tất cả các giá trên đều đã có VAT 17%.

Nhu cầu thường sẽ tăng Rằm tháng giêng (tức ngày 14/02/2014 dương lịch) do các công ty đều mở cửa trở lại nhưng cho đến nay vẫn chưa có tín hiệu nào cho thấy sức mua sẽ phục hồi vì nhiều thương nhân trong nước đang thiếu tiền mặt.

“Các nhà máy không nâng giá bán nên giá trên thị trường giao ngay không thể lên được. Nhưng nhu cầu sẽ cải thiện trong tháng 03”, một quan chức nhà máy ở miền nam nói. Như tin đã đưa, Shanxi Taigang và Baosteel đều thông báo trong tuần trước rằng họ sẽ giữ giá bán tháng 03 ở trong nước không đổi.

Tuy nhiên, một thương nhân ở Quảng Châu nói rằng giá có thể sẽ vẫn duy trì thêm một thời gian ngắn nữa. Nhưng các nhà máy khó mà giảm giá thêm nữa vì chi phí sản xuất lớn. 

Giá phế suy yếu tại Châu Á

 

Giá phế tại Châu Á suy yếu trong tuần trước, cụ thể giá tại Nhật Bản và Hàn Quốc đều giảm. Tokyo Steel Manufacturing, nhà sản xuất hàng đầu của Nhật Bản đã hạ giá mua phế tại xưởng Utsunomiya, phía bắc Tokyo, xuống 500 Yên/tấn (5 USD/tấn) từ ngày 28/02. Đây là lần giảm giá thứ 6 trong tháng 02 của nhà máy này và tổng cộng giá đã giảm 2.000-3.000 Yên/tấn (19,6-29,4 USD/tấn).

Đáng chú ý hơn đó là quyết định của Sanko Seiko ở Kanagawa, gần Tokyo, giảm 1.500 Yên/tấn từ ngày 01/03. Lý do họ đưa ra là vì tuyết rơi dày trong tuần trước đó đã khiến hoạt động thu mua và vận chuyển phế bị đình trệ nhưng đến nay phần lớn tuyết đã tan chảy nên việc giao các lô phế trở lại bình thường.

Hôm thứ năm, Hyundai Steel đã đặt mua phế H2 của Nhật với giá 32.500 Yên/tấn FOB giao tháng 04, thấp hơn khoảng 500  Yên/tấn so với giá đặt mua trước đó.

Tại thị trường phế ở Hàn Quốc, Posco sẽ giảm giá mua phế trong nước xuống 5.000 Won/tấn (4,7 USD/tấn) cho tất cả các loại phế ở xưởng Gwangyang từ ngày 03/03. Quyết định này được thực hiện sau khi Posco Specialty Steel ở Changwon, phía tây Busan, và SeAH Besteel ở Gunsan, hướng Tây Nam của Seoul, đều giảm giá mua xuống mức như trên áp dụng lần lượt từ ngày 26/02 và 27/02.

Tại Đài Loan, giá nhập khẩu phế ferrite lô nhỏ từ bờ biển phía tây của Mỹ nhích nhẹ lên trong tuần trước, ngược với đà giảm liên tục trong hai tháng, còn các giao dịch phế lô lớn được ký kết bằng với giá đặt mua của tuần trước. Phế HMS 1&2 80:20 lô nhỏ được chốt tại 339 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần trước, tăng so với giá mua 335 USD/tấn trước đó. Trước khi giá tăng nhẹ trong tuần trước thì đã để mất tổng cộng 37 USD/tấn kể từ cuối tháng 12.

Platts định giá phế HMS 1&2 (80:20) lô nhỏ tăng 3 USD/tấn trong ngày thứ năm lên 308-313 USD/tấn FAS cảng Los Angeles.

Tại Trung Quốc, Platts định giá phế dày trên 6mm là 2.420 NDT/tấn (394 USD/tấn) gồm VAT và vận chuyển tới thành phố Trương Gia Cảng, tỉnh Giang Tô hôm thứ Sáu, giảm 20 NDT/tấn so với tuần trước đó.

Các nhà máy trong nước quay lưng khi giá quặng sắt nhập khẩu vào Trung Quốc giảm

Giá quặng sắt nhập khẩu giảm trong tuần trước do bị ảnh hưởng từ các biện pháp bảo vệ môi trường của chính quyền Trung Quốc, các nhà máy trong nước quay lưng lại với thị trường nguyên liệu này khiến mức tiêu thụ thép suy yếu trên thị trường giao ngay.

Giá tham khảo của quặng cám 62% Fe tại TSI giảm 4,3 USD/ dmt tức 3,5% so với tuần trước đó, cuối ngày thứ sáu chốt tại 118,1 USD/dmt CFR Thiên Tân. Còn IODEX 62% Fe tại Platts hôm thứ sáu có giá 118,5 USD/dmt CFR miền bắc, giảm 3,3% tức  4 USD/dmt so với tuần trước đó. Mức giá này đánh dấu sự phục hồi nhẹ trở lại sau khi chạm mức thấp của 8 tháng chỉ có 117,5 USD/dmt hôm 26/02.

Do mức độ ô nhiễm gia tăng nên chính quyền nước này đã tăng cường hạn chế sản lượng đầu ra của các xưởng sản xuất thép và một số nhà máy đã bị buộc phải cắt giảm bớt sản lượng thép thô nhằm giảm khí thải, điều này đã gây ảnh hưởng đến nhu cầu nguyên liệu.

Sản lượng thép thô của cả nước từ ngày 11-20/02 đạt mức trung bình 1,96 triệu tấn mỗi ngày, giảm 4,8% so với 2,6 triệu tấn/ngày trong 10 ngày đầu tháng 02, theo ước tính của Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA).

Tín dụng thắt chặt cũng gây khó khăn cho thị trường thép, do các nhà máy đang phải đối mặt với nhiều rắc rối để có thể bán hết hàng tồn trong kho. Điều này đã gây ảnh hưởng đến dòng tiền mặt của họ và làm hạn chế khả năng thu mua nguyên liệu nhập khẩu.

Nhưng không phải tất cả các nguồn tin thị trường đều bi quan như vậy. Một số người vẫn tỏ ra lạc quan cho rằng nhu cầu thép sẽ cải thiện khi hoạt động xây dựng trở lại bình thường trong tháng 03 khi thời tiết ấm dần lên. Số khác thì cảm thấy rằng sản lượng thép thô giảm sẽ giúp giảm bớt các vấn đề tồn đọng bấy lâu nay về sản lượng dư thừa từ đó sẽ hỗ trợ cho giá thép và nhu cầu quặng sắt gia tăng.  

Giá tấm mỏng Nga trong tháng 3 tăng

Các nhà máy Nga đang nỗ lực tăng giá chào bán thép tấm cán nóng  tháng 3, tuy nhiên, giá tăng ít hơn dự kiến. Gía tháng này, nếu không tính 18% VAT, đã tăng 260-310 Rub/tấn (7-9 USD/tấn) , tức 1.5-2% so với tháng 2 trong khi các nhà máy dự định tăng giá tới 800-850 Rub/tấn.

Đối với các khách hàng tại Trung Nga, thép tấm cán nóng đã tăng lên mức 12.650 -21.800 Rub/tấn (599-603 USD/tấn) đối với loại 2mm, và 21.070-21.200 Rub/tấn (583-586 USD/tấn) đối với 4mm. Nếu không tính VAT, giá 2 mặt hàng trên lần lượt là 18.350-18.480 Rub/tấn (5-8-511 USD/tấn) và 17.860-17.970 Rub/tấn (494-497 USD/tấn) CPT Maxcova.

Nếu tính bằng đồng dolla, giá thép tấm cán nóng 2mm và 4mm  thực sự đã mất 12-15 USD/tấn và 6-9 USD/tấn so với các giao dịch đầu và giữa tháng 2 do đồng Rub liên tục mất giá. Tỷ giá cuối tháng 9 là 36.1 Rub=1 USD.

Trong ngày cuối tuần qua, Platts tăng giá tấm cán nóng 1-4mm nga thêm 250-300 Rub/tấn (7-8 USD/tấn), đạt mức 17.900-18.400 Rub/tấn (495-509 USD/tấn) CPT Maxcova. Gía HRC cũng tăng lên mức 17.300-17.800 Rub/tấn (478-492 USD/tấn) xét cùng loại trên.

Đối với các đơn hàng tháng 3, các nhà máy đã thành công trong việc tăng giá tấm cán nguội 1mm như dự định, thêm 800-900 Rub/tấn (23-25 USD/tấn), tức 4-4.5% so với tháng trước, đạt mức 20.300-20.510 Rub/tấn (561-467 USD/tấn) CPT Maxcova. Với 18% VAT, giá tấm cán nguội hiện tại được giao dịch ở mức 23.950-24.200 Rub/tấn (662-669 USD/tấn). Tính bằng đồng USD, giá mới vẫn ngang bằng với tháng trước.  

Thị trường thép cây mong ngóng giá phế bình ổn

Các người mua thép cây tại Mỹ đang ngưng đặt hàng do giá phế vẫn  trên đà giảm và thị trường vẫn trì trệ trong mùa đông.

Các người mua dự báo giá thép cây số 5 sẽ đạt mức 640-660 USD/tấn xuất xưởng mặc dù họ vẫn không đặt bất cứ đơn hàng  nào.

Các nhà máy nội địa đã thu hồi lại thông báo tăng giá 20 USD/tấn trong tháng 2. Dự báo giá phế vụn Midwest đầu tháng 3 có thể giảm 10-20 USD/tấn dài.

Một  thương nhân tại Đông Nam Mỹ cho hay đã mua thép cây tại mức 645 USD/tấn trong tuần qua, tuy nhiên, nhìn chung tâm lý thị trường hiện atij vẫn nghiêng về xu thế chờ đợi. 

Giá cuộn trơn nội địa Mỹ giảm

Các người mua cuộn trơn Mỹ hiện tại đang xem xét cuộn trơn nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ và tránh xa hàng Trung Quốc. Bên cạnh đó, cũng có các nguồn hàng từ Bồ Đào Nha, Nga, Nam Phi, tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là nguồn cung lớn nhất trên thị trường nhập khẩu.

Trong khi đó, một thương nhân Mỹ cho rằng hàng Trung Quốc vẫn có sẵn cho tới tháng 6, tùy thuộc vào mức độ của thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng với hàng Trung Quốc.

Một khách hàng tại Midwest cho biết đã mua cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ tại giá cao hơn hàng Trung Quốc là 50 USD/tấn, tuy nhiên, giá sẽ giảm trong tương lai gần và có thể tăng lại trong tháng 5 và 6.

Giá cuộn trơn dạng lưới tại Midwesr đạt mức 660-670 USD/tấn ngắn xuất xưởng và đang có xu hướng giảm. Gía có thể thay đổi trong vòng 60 ngày tới phục thuộc vào mức độ tiến triển của cuộc điều tra.

Chào giá cuộn trơn cacbon thấp từ Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 605 USD/tấn ngắn  (666 USD/tấn) vận chuyển bằng xe tải ở Houston, tuy nhiên, ông không quan tâm mức giá này. Ông cũng cho hay, cuộn trơn dnagj lưới trong nước đang đạt mức 650-670 USD/tấn xuất xưởng.

Một thương nhân khác cho biết giá cuộn trơn tại Midwest là 660 USD/tấn ngắn xuất xưởng, trong khi  giá chào từ Đài Loan đối với hàng cập bến tháng 6 cao hơn giá phổ biến ở Trung Quốc là 80 USD/tấn. Thương nhân này không mua hàng do chưa chắc về xu hướng giá nội địa sẽ như thế nào trong mùa xuân này.

Một người mua cuộn trơn tại Nam Mỹ cho hay các nhà máy trong nước đang chào bán ở mức 680-700 USD/tấn ngắn xuất xưởng, tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ vẫn yếu. 

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á ổn định trong khi chờ chào giá mới 

Giá thép cuộn cán nguội không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ Đông Á hôm thứ Sáu không đổi so với tuần trước đó vẫn duy trì từ 2.350-2.400 USD/tấn CFR cảng Đông Á do thị trường đang chờ những chào giá mới cho tháng 03 từ các nhà sản xuất thép không gỉ.

Giao dịch im ắng trong tuần trước do hầu hết các nhà sản xuất đã chốt đủ đơn đặt hàng trong tháng 02 và nhiều thương nhân vẫn đang xác nhận chào giá mới từ các nhà sản xuất ở Đài Loan và Hàn Quốc.

Một thương nhân Hong Kong đã mua 200 tấn CRC dày 0.5mm từ Hàn Quốc với giá 2.500 USD/tấn CFR Hong Kong trong tuần trước. Tuần trước, ông này cũng đã nhận được chào giá từ Đài Loan cho CRC 2mm là 2.400 USD/tấn CFR Hong Kong. “Các nhà cung cấp cho biết họ có thể chấp nhận mức giá 2.350 USD/tấn CFR”, nhưng không có giao dịch nào được thực hiện vì các khách hàng của ông không có nhu cầu đối với CRC Đài Loan.

Các chào giá CRC 2mm từ Hàn Quốc và Đài Loan lần lượt là 2.400-2.430 USD/tấn CFR và 2.400-2.450 USD/tấn CFR Đông Á trong tuần kết thúc ngày 17/02.

Tuần trước, tập đoàn Yieh United Steel Corp (Yusco) của Đài Loan đã thông báo là sẽ giữ chào giá cho hàng xuất khẩu giao tháng 04 trong khi Posco lại cho biết là sẽ giữ giá trong nước không đổi.

Tuy giá kim loại niken dao động trên 14.000 USD/tấn từ đầu tháng 02 đến nay nhưng các nhà sản xuất thép không gỉ Châu Á lại đang thấy khó để nâng giá lên do sức mua trong khu vực vẫn còn yếu sau Tết. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME chốt tại 14.180-14.185 USD/tấn hôm 27/02. 

Các thương nhân Mỹ chào bán cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ trong khi hàng Trung Quốc vắng mặt

Các thương nhân tại Mỹ đang chào  giá mới của mặt hàng  cuộn trơn tới các khách hàng  nước này, mặc dù có rất ít mối quan tâm do người mua đã đặt một lượng lớn hàng từ Trung Quốc vào cuối tháng 1. Một thương nhân cho hay vài người mua đang mua cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ ở khối lượng nhỏ, mặc dù giá đã giảm nhẹ trong tháng qua. Thời gian giao hàng từ Thổ Nhĩ kỳ thì ngắn hơn so với Trung Quốc. Tuy nhiên, người mua chỉ đặt đủ lượng hàng họ cân vào lúc này.

Một tháng trước, mức chênh lệch giá giữa cuộn trơn Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là 80 USD/tấn, tuy nhiên, hiện tại đã thu hẹp lại còn 60 USD/tấn. Gía trong 2 tuần qua phổ biến ở mức 620-630 USD/tấn CFR Houston đối với cuộn trơn dạng lưới.

Một thương nhân khác đồng tình rằng giá chào rẻ tầm 620 USD/tấn CFR Houston đối với cuộn trơn út cacbon Thổ Nhĩ Kỳ. Gía chào gần đây từ Trung Quốc là 565-570 USD/tấn CFR Houston cách đây khoảng 3 tuần.

Không có đơn hàng nào mới đặt mua cuộn trơn Trung Quốc do khách hàng lo ngại về rủi ro hàng sẽ không tới trước ngày quan trọng trong  cuộc điều tra thương mại, và có thể còn phức tạp hơn nữa nếu quyết định chống bán phá giá sơ bộ của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ bị hoãn lại hoặc bên kiện cáo buộc trường hợp này còn tồn tại sẽ dẫn tới các trách  nhiệm hồi tố.

Quyết định chống bán phá giá sơ bộ dự báo sẽ thực  hiện vào ngày 10/7, và thuế đối kháng là ngày 28/4. Kết thúc các quyết định này dự kiến vào ngày 23/9 và 10/7, trừ khi được mở rộng.

Trong khi đó, có nguồn tin cho rằng hàng Trung Quốc có thể tràn vào thị trường Mỹ trong tháng 5. Thương nhân này dự báo nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng, nhwung các khách hàng mỹ không vội thu mua cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ.

Bên cạnh đó, hàng từ Nga, Nam phi, Ai Cập, Venezuela và Đài Loan cũng sẽ tới thị trường Mỹ.

 

 

 

Giá thép ống đúc miền đông Trung Quốc ổn định, xu hướng không rõ ràng 

Giá giao ngay của ống đúc tại thị trường bán lẻ Thượng Hải vẫn ổn định trong tuần trước. Tuy nhiên, niềm tin thị trường lại có những tín hiệu cho thấy sự suy yếu cùng với sự giảm nhẹ của giá xuất xưởng tại các nhà máy ở những khu vực cung cấp chính của tỉnh Sơn Đông , ngoài ra nhu cầu tiêu dùng trực tiếp cũng trở nên chậm lại.

Hôm 28/02, Platts định giá ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc tại 4.200 NDT/tấn (683 USD/tấn) đã có VAT 17% tại Thượng Hải, bằng với giá của tuần trước đó.

Hầu hết các thương nhân đều dự đoán xu hướng giá sẽ không thể tăng trong tháng 03 mặc dù mức tiêu thụ thép thường cải thiện vì các nhà máy thép ống ở thành phố Lâm Nghi- một trung tâm sản xuất thép ống đúc ở tỉnh Sơn Đông- đã hạ giá xuất xưởng của họ xuống 50 NDT/tấn trong hai ngày 26 và 27/02, để phù hợp với đà giảm của giá thép tròn đặc ở trong nước.

Xu hướng thị trường giao ngay hiện nay vẫn còn chưa chắc chắn do nhu cầu có thể sẽ có một vài sự phục hồi trong tháng 03. “Nhu cầu trong nước đang cải thiện mặc dù vẫn còn thấp. Chúng tôi không muốn hạ giá bán xuống ngay tức thì bởi vì hàng dự trữ không còn nhiều”, một thương nhân Thượng Hải nói.

Ông cho biết hôm thứ sáu rằng giá thép tròn đặc sẽ được một số nhà sản xuất lớn ở tỉnh Sơn Đông và Giang Tô thông báo vào ngày 01/03 cho hàng giao từ ngày 01-10/03, và có thể giúp cho xu hướng thị trường thép ống đúc trở nên rõ ràng hơn. 

Thép cây miền bắc Trung Quốc tăng 5 USD/tấn nhưng giá trên sàn SHFE lại giảm 

Thị trường thép cây miền bắc Trung Quốc đã tăng 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) trong ngày thứ sáu, cùng với dự đoán của các thương nhân rằng nhu cầu sẽ cải thiện hơn trong tháng 03. Tuy nhiên, giá giao dịch trên sàn Shanghai Futures Exchange lại đi xuống.

Tại thị trường Bắc Kinh hôm 28/02, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm  được sản xuất từ Hegang lên khoảng 3.220-3.230 NDT/tấn (524-527 USD/tấn) trọng lượng thực tế, tăng so với mức 3.190-3.200 NDT/tấn của ngày thứ năm, khi giá giảm 10 NDT/tấn.

“Nhiều thương nhân không muốn giảm chào giá của họ thêm nữa vì giá giao ngay thấp hơn so với giá xuất xưởng của các nhà máy và thời tiết tại Bắc Kinh cải thiện sau đợt ô nhiễm khói bụi độc hại kéo dài một tuần đã giảm bớt vào tối ngày 26/02”, một thương nhân Bắc Kinh cho biết.

Hebei Iron & Steel (Hegang) đã thỏa thuận giá hợp đồng tháng 02 cho thép cây đường kính tại 3.200 NDT/tấn (525 USD/tấn) trọng lượng lý thuyết gồm VAT 17%. Tính thêm dung sai khối lượng 3% thì mức giá này tương đương khoảng 3.300 NDT/tấn trọng lương thực tế, tăng cỡ 100 NDT/tấn so với tháng 01 khi mà Hegang chốt mức giá 3.200 NDT/tấn tính theo trọng lượng thực tế.

Nhiều người dự kiến sẽ nâng chào giá lên trong thứ sáu tuần trước vì thông thường vào tháng 03, người mua sẽ quay lại thị trường nhiều. “Sau khi giá tăng, doanh số bán ra vẫn ổn vì thị trường không có sự phản ứng mạnh mẽ nào. Một số thương nhân trong đó có chúng tôi có thể sẽ còn tăng giá lên nữa vì nhận thấy lượng hàng dự trữ trong kho giảm sau khi mở cửa giao dịch trở lại sau Tết vào giữa tháng 02”, một thương nhân khác nói.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn SHFE giảm 0,66% so với ngày trước đó còn 3.318 NDT/tấn hôm thứ Sáu và giảm 2% so với mức 3.389 NDT/tấn của tuần trước đó. 

HRC Mỹ giảm nhưng có tiềm năng ổn định

Giá HRC tại Midwest Mỹ đã suy yếu tring cuối tuần qua, tuy nhiên, cũng có thể giá đã ổn định.

Platts hạ giá HRC xuống mức 635-645 USD/tấn ngắn nhưng vẫn giữ giá CRC ở mức 760-770 USD/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.

Kể từ tuần qua, áp lực hạ giá đã lắng xuống do sự mất điện tại lò cao ở nhà máy AK Steel tại Kentucky. Thời gian mất điện  có thể kéo dài 12-13 tuần.

Thêm vào đó, công xưởng  Dearborn của  nhà máy Severstal tuần này cũng ngưng sản xuất dựa vào giá gas tăng đã thiết lập giá sàn 620 USD/tấn đối với các đơn hàng HRC mới. Đây cũng là dấu hiệu thị trường hiện tại có thể ổn định.

Bên cạnh đó, cũng có vài quan điểm lạc quan rằng thị trường có thể khởi sắc trở lại. Tại Midwest, giá phổ biến với HRC xuât xưởng là 640 USD/tấn với một vài giá chào thấp 620-630 USD/tấn cũng hiện hữu. Tuy nhiên, vẫn chưa có thông tin về các giao dịch tại mức giá trên. 

Giá thép cây tháng 3 Nga tăng 6%

Các nhà máy thép cây Nga kiên quyết tăng giá thép cây tháng 3 thêm 1.030-1.040 Rub/tấn (27-29 USD/tấn), tức 6% so với tháng trước để bù đắp tổn thất phát sinh từ ngoại hối và sự sụt giảm giá trong tháng 12-1 so nguồn cung quá mức. Dường như các nhà máy đã đạt được mục tiêu đề ra.

Để hỗ trợ cho kế hoạch tăng giá, các nhà máy đã cắt giảm sản lượng tháng 2 trong một thời gian ngắn. các nhà phân phối cũng giảm  hàng tồn xuống mức 1 tháng hoặc chỉ từ 2+ ( distributors ran down their inventories to one month’s worth of stock or just over from 2+, và hiện tại đang  đối mặt với sự thiếu hụt nhẹ, đặc biệt là các loại thép cây đường kính nhỏ.)

Nhiều thương nhân xác nhận giá tăng từ các nhà máy đã được thị trường chấp nhận một cách dễ dàng do người mua phải cạnh tranh mua hàng vì hàng tháng 3 khan hiếm. Nhiều nhà tiêu thụ cuối đang vội thu mua do đã được cảnh báo rằng giá có thể tăng bất cứ lúc nào vào tháng này.

Đồng Rub suy yếu kìm hãm nhập khẩu thép cây CIS vào Nga, giúp nguồn cung được thắt chặt.

Trong tháng 12, xuất khẩu thép cây Ukraina vào Nga đã giảm xuống 14.000 tấn từ mức trung bình 80.410 tấn/tháng trong năm 2013. Kể từ đầu năm nay, không có bất cứ dấu hiệu nhập hàng nào từ Ukraina. Nhà máy  BMZ ở  Belarus đã cắt giảm ít nhất ½  sản lượng thép cây xuất khẩu vào Nga, còn 25.000 tấn hàng tháng 2-3 khi giá cho phép lợi nhuận tương xứng.

Hiện tại, các thành viên thị trường tin tưởng rằng giá 21.250-21.650 Rub/tấn (592-603 USD/tấn) đối với thép cây 12-14mm giao ở Maxcova đã gồm 18% VAT hoặc 18.010-19.350 Rub/tấn (502-511 USD/tấn) chưa tính VAT sẽ được thị trường phổ biến rộng rãi. Platts tăng giá thép cây hàng tuần Nga lên mức 18.010-18.310 Rub/tấn (502-510 USD/tấn) CPT Maxcova. 

Thị trường thép cây Hàn Quốc ổn định nhờ kết quả các cuộc đàm phán giá

Giá thép cây được ký kết gần đây giữa Hyundai Steel và các công ty xây dựng trong nước được cho là đã giúp bình ổn thị trường trước khi sắp bước vào mùa tiêu thụ cao điểm của cả nước. Các cuộc đàm phán giữa hai bên đã rơi vào bế tắc kể từ tháng 09/2013 nhưng cuối cùng đã đi đến hồi kết vào thứ năm tuần trước.

Sau khi hai bên thỏa thuận, đã đồng ý với mức giá 730.000 Won/tấn (684 USD/tấn) cho thép cây SD 400 đường kính 10mm giao từ tháng 09 đến tháng 10 năm ngoái và 720.000 Won/tấn trong tháng 11. Giá từ tháng 12 đến tháng 03 được chốt tại 725.000 Won/tấn.

Thị trường thép cây Hàn Quốc đã ảm đạm trong gần 6 tháng qua do thiếu lực cầu từ ngành xây dựng và xu hướng không rõ ràng trên thị trường khi mà các cuộc thỏa thuận giá bị đình trệ.

“Mặc dù chúng tôi không hài lòng nhưng vẫn đồng ý với Hyundai bởi vì mối quan tâm về giá trong dài hạn vẫn chưa được quyết định khi mà nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng mạnh trong thời gian tới”, một quan chức nói. Ông dự báo thị trường xây dựng trong nước từ tháng 03 đến tháng 05 sẽ cải thiện do thời tiết ấm lên trong mùa xuân.

Cách đây hai tuần, Hyundai đã kiên quyết sẽ quyết định giá thép cây trong nước dựa theo hàng quý chứ không phải theo tháng và thêm vào đó sẽ thỏa thuận giá bán với các khách hàng trước khi giao hàng. “Vì chúng tôi đã thiết lập giá thép cây tháng 01 đến tháng 03 với các công ty xây dựng nên chúng tôi sẽ nỗ lực duy trì hệ thống mới này trong quý tới”, quan chức Hyundai cho biết.

Tuy ông này đã chấp nhận sự chọn lựa hệ thống mới nhưng cho biết sẽ không ai chấp nhận hệ thống mới này nếu như Hyundai đưa ra các mức giá vô lý. 

Giá thép tấm Trung Quốc tiếp tục đi xuống làm sức mua giảm  

Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa Trung Quốc giảm 10-20 NDT/tấn trong tuần trước, khiến nhiều người mua bắt đầu do dự đặt mua khi mà giá đã suy yếu từ ngày 24/02 đến hết tuần.

Hôm thứ Sáu, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến với giá khoảng 3.480-3.510 NDT/tấn (566-571USD/tấn), giảm 10-20 NDT/tấn so với giá niêm yết tại Platts hôm 21/02. Nhưng tính ra giá thép tấm vẫn còn khá cao so với các sản phẩm thép khác, khi mà giá nguyên liệu giảm đáng kể trong tuần trước.

Một số đại lý ở Thượng Hải cho biết một lô thép tấm từ nhà máy ở miền bắc đã được giao tới thị trường Thượng Hải trong tuần trước gây ảnh hưởng xấu đến giá ở đây.

Giá thép tấm đã tăng 20 NDT/tấn trong tuần trước trong khi thép dài cùng với HRC và CRC đều suy yếu. Tuy nhiên, mức tăng không được một số khách hàng chấp nhận và kết quả là một số người bán phải giảm chào giá xuống lại. Hoạt động kinh doanh hơi chậm lại trong tuần trước do nhiều người mua đã chuyển sang thái độ chờ đợi khi giá bắt đầu lao dốc.

Có nhiều lời đồn đoán rằng các ngân hàng sẽ hạn chế cho vay và cấp tín dụng cho các công ty thép khiến tâm lý thị trường càng thêm mất niềm tin và đa số các đại lý đã dự đoán giá thép tấm không thể tăng trong tháng 03.

Theo thống kê từ nhà cung cấp thông tin MySteel ở Thượng Hải, thép tấm tồn kho tại các nhà kho lớn ở Thượng Hải còn tổng cộng 208.000 tấn hôm 28/02, tăng 2.500 tấn so với tuần trước đó. 

Giá HRC tiếp tục suy yếu tại Trung Quốc

Giá HRC Trung Quốc tại thị trường Thượng Hải và Lecong tiếp tục suy giảm hôm thứ sáu tuần trước. Tuy nhiên, HRC tồn kho tại Thượng Hải trong suốt tuần trước cũng giảm mạnh sau khi tăng trong một thời gian ngắn vì thị trường trì trệ sau Tết.

Hôm thứ Sáu, HRC Q235 5.5mm được giao dịch với giá từ 3.390-3.420 NDT/tấn (552-556 USD/tấn) tại Thượng Hải và 3.410-3.500 NDT/tấn tại Lecong gồm VAT 17%, giảm lần lượt 10 NDT/tấn và 15 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Nhiều thương nhân trong nước cho biết giá giao ngay đã giảm nhẹ vì thị trường giao sau và giá giao dịch trên sàn đều suy yếu, cùng với đó đa số các thương nhân đều có ý định giảm bớt hàng tồn để tránh rủi ro trong bối cảnh thị trường ảm đạm. Vì những nỗ lực giảm bớt hàng dự trữ của các thương nhân nên HRC tồn  kho tại Thượng Hải đã giảm 6.500 tấn từ ngày 21/02 còn 920.500 tấn hôm 28/02.

Một số thương nhân tin rằng giá HRC sẽ có nhiều cơ hội ổn định trong tháng này trừ phi sản lượng bật tăng.

Tại thị trường xuất khẩu, chào giá HRC tới Việt Nam giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Tuy nhiên, số người mua vẫn còn thưa thớt và nhìn chung chưa có hợp đồng nào được ký kết.

Các lô HRC SAE 1006B dày 2mm trọng tải 5.000-10.000 tấn giao cuối tháng 04 có giá  phổ biến tầm 555 USD/tấn CFR, trong khi một nhà máy Trung Quốc chỉ chào bán loại thép này với giá 550 USD/tấn CFR. HRC loại tương tự được sản xuất từ Nhật nghe nói có chào giá 580 USD/tấn CFR. Còn HRC SS400B dày từ 3mm trở  lên từ Trung Quốc có chào giá phổ biến 535 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần trước.   

Chào giá xuất khẩu thép tấm Trung Quốc không đổi, các thương nhân lo lắng giá sẽ giảm 

Các chào giá xuất khẩu thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa của Trung Quốc vẫn không đổi trong thứ sáu tuần trước; tuy nhiên, các thương nhân trở nên hơi bi quan về xu hướng thị trường trong tháng 03 do giá trong nước đang suy yếu cộng thêm tình hình tín dụng thắt chặt. Một nhà máy ở miền bắc đã chọn cách không nâng giá xuất khẩu sau Tết do giá trong nước đang lao dốc.

Tính đến ngày 28/02, các thương nhân hàng đầu ở trong nước vẫn giữ chào giá cho thép tấm loại SS400 dày 12-30mm duy trì tại 520-525 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, giá giao ngay được chốt khoảng 515-520 USD/tấn, bằng với giá ngày 25/01. Một số nhà máy nghe nói đang chào giá 510 USD/tấn nhưng giá này được xem là không phổ biến, vì chỉ xuất hiện ở các nhà máy bị sức ép lớn về tiền mặt nên họ cần đẩy hàng nhanh thậm chí là bị thua lỗ.

Giá xuất khẩu thép tấm đã từng tăng mạnh trong tuần kết thúc ngày 15/02 và các giao dịch có giá 515 USD/tấn FOB trở nên khó mà mua được hàng mặc dù nhiều thương nhân lúc bấy giờ cũng không lạc quan lắm về giá tháng 03. Tuy các chào giá CRC tới Hàn Quốc giảm nhẹ nhưng vẫn tương đương khoảng 515-520 USD/tấn FOB.

Nhiều khách hàng chần chừ đặt mua vì giá trong nước giảm và ngày càng có nhiều người đứng ngoài thị trường và lùi về vị trí quan sát chờ cho đến khi xu hướng thị trường trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, nếu có giảm thêm nữa thì cũng sẽ rất hạn chế do nhiều nhà sản xuất thép tấm đã bán với dưới giá vốn.

Một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết khối lượng xuất khẩu đã đủ mặc dù có giảm một chút và đang quan tâm đến tình hình cấp tín dụng cũng như các chính sách được đưa ra trong Hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc (Chính hiệp) và Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) khoá 12 cũng sẽ diễn ra tại Bắc Kinh trong tuần này. 

Các nhà máy phôi phiến CIS mở cửa nhận đơn hàng tháng 5, Thổ Nhĩ Kỳ tránh xa thị trường

Các nhả xuất khẩu phôi phiến CIS đang giao dịch tại mức 505-515 USD/tấn FOB Biển Đen hoặc 545-555 USD/tấn CFR Đông Nam Á/ Viễn Đông trong cuối tuần qua. Đây là giá giao dịch với hàng tháng 3 mặc dù một vài nhà máy Nga đã bán hết hàng cho tới tháng 5.

Một nhà  máy thép đặt mua lô hàng lớn 90.000 tấn phôi phiến tháng 4 giao tháng 5 tại mức giá 555 USD/tấn CIF Viễn Đông. Đây có thể xem là mức giá tốt, tương đương với giá vài lô hàng tháng trước.

Trong khi đó, giá chào mua từ Thổ Nhĩ Kỳ không cạnh tranh, chỉ còn 505 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ. Do đó, đã không có giao dịch nào diễn ra. Hiện tại, các khách  hàng Châu Á vẫn đang hoạt động tích cực nhất.

Một thương nhân lớn cho biết giá phôi phiến  Biển Đen tháng này có xu hướng giảm 10 USD/tấn , tuy nhiên đây không phải là những gì người mua Thổ Nhĩ Kỳ muốn. Họ muốn giá mua tầm 505 USD/tấn sau khi giá phế đã giảm mạnh, nhưng không ai chấp nhận bán ở mức giá trên cả.

Sau khi phôi phiến tháng 3 được chốt tại mức 545-555 USD/tấn CFR Đông Nam Á, một nguồn tin dự báo thị trường tháng 4 sẽ khá là trầm lắng. 

Nhà máy Erdemir tiếp tục cắt giảm giá thu mua phế trong nước

Nhà máy Erdemir đã tiếp tục hạ giá thu mua phế DKP (bằng đồng Lira) trong ngày thứ 7, dựa vào sự suy yếu  của giá phế nhập khẩu và đồng Lira lại mất giá do các cáo buộc tham nhũng của Chính Phủ. Gía mua mới của nhà máy này là 800 TRY/tấn (362 USD/tấn), giảm 30 TRY/tấn.

Nhà máy Colakoglu cũng giảm giá mua phế DKP trong ngày 26/2 xuống mức 745 TRY/tấn, thấp hơn giá trước 40 TRY/tấn trong khi Asil Celik tiếp tục giảm giá mua xuống 765 TRY/tấn (346 USD/tấn).

Tuy nhiên, nhà máy Kardemir lại không hưởng ứng theo các nhà máy khác mà vẫn giữ giá  mua ở mức 855 TRY/tấn (387 USD/tấn) kể từ 11/2. Theo dự báo, có thể nhà máy này sẽ hạ giá thu mua phế trong những ngày tới nếu tình hình thi trường không có biến chuyển.

Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm 5 USD/tấn trong tuần qua. Giá mua của Cebitas và Edge Celik LÀ 345-350 usd/tấn trong khi giá phế nóng chảy từ xác tàu được chào bán tới các nhà máy phía Tây như IDC, Habas, Ozkan đạt mức 350-355 USD/tấn. 

Thép hình EU giảm do cầu yếu 

Thị trường thép hình Châu Âu vẫn suy yếu trong nửa tháng qua do cầu yếu. Mặc dù các nhà máy đã hạ giá chào bán, người mua vẫn hoãn việc thu mua hàng do đang tồn hàng khá cao.

Trong tuần qua, thép hình loại 1 đạt mức 540 Euro/tấn, tuy nhiên, tuần này giá đã hạ một ít. Một nhà tích trữ hàng hóa Hà Lan đang chào bán thép hình Đông Âu tại mức 520 Euro/tấn. Ông dự báo giá vẫn sẽ duy trì ở mức này trong một thời gian dài.

Một nhà máy Bắc Âu cho biết nhu cầu tiêu thụ trong tháng 2 trầm lắng , một phần do ảnh hưởng Lễ Năm mới ở Trung Quốc và lễ hội Châu Âu. Gía chào bán từ nhà máy này vẫn ở mức 555-560 Euro/tấn, nhưng các khách hàng của Ông chỉ chấp nhận trả dưới mức này 20 Euro/tấn.

Một thương nhân Đức cho biết một nhà máy nôih địa đang chào bán tại mức 540 Euro/tấn, nhưng thương nhân này không mua hàng do hàng tồn vẫn còn đủ.

Platts hạ giá thép hình cỡ trung Châu Âu xuống 2 Euro/tấn, còn 538 Euro/tấn DDP EU trong tuần qua. 

Thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ khởi sắc

Giá phế 80: 20 Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 3 USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 354 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Định giá của TSI đối với mặt hàng này cũng tăng 0.6%, đạt mức 352 USD/tấn CFR cảng Iskenderun.

Trong khi đó, thị trường nhập khẩu kém sôi động hơn tuần trước, tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là khối lượng nhập khẩu tăng. Thị trường ghi nhận các lô hàng được bán từ Anh, Bantic, Benelux, nhưng các nhà xuất khẩu Mỹ lại vắng mặt.

Trong khi đó, bất ổn chính trị tại Ukraina đang dấy lên một mối quan ngại, tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này ảnh hưởng nhiều tới phôi thanh hơn, còn phế thì không chịu sức ép đáng kể. Nguồn cung phôi thanh đang bị hạn chế từ Ukraina có thể giúp ích cho các nhà cung phế.

Tại Mỹ, giá TSI với phế vụn vẫn không đổi, đạt mức 405 USD/tấn dài giao tại Midwest. 

Thị trường thép cuộn Tây Bắc Âu vẫn trì trệ

Thị trường thép cuộn Tây Bắc Âu vẫn trì trệ trong tuần qua do giá chào bán tăng từ các nhà máy đã không được người mua chấp nhận. Các nguồn tin cho hay hàng tồn đã ở mức cao trong Qúy 4 khi giá đã chạm đáy. Người mua hiện tại vẫn giữ nguyên giá chào mua trong khi chờ xem xu hướng thị trường rõ ràng hơn.

HRC tiếp tục được giao dịch ở mức thấp hơn nhiều so với giá chào bán. Các người mua cho biết hàng HRC vẫn còn được chào bán nhiều tại mức giá 450 Euro/tấn xuất xưởng ở Tây Bắc Âu, tuy nhiên, mức giá này thậm chí chỉ có thể đạt được đối với các đơn hàng khối lượng lớn. Các nhà máy nói rằng trong tháng 2, người mua sẽ phải trả thêm 30 Euro/tấn và không có bàn cãi gì hết. Thế nhưng, điều này đã không xảy ra. Nhìn chung, giá chào bán hàng giao Qúy 2 là 470-480 Euro/tấn xuất xưởng mặc dù có thông tin về một nhà máy nội địa chỉ chào ở mức dưới 450 Euro/tấn.

Trong khi đó, giá CRC và thép mạ không có biến chuyển nhiều, vẫn đạt mức 530 Euro/tấn xuất xưởng từ các nhà máy Tây Âu và 525 Euro/tấn từ các nhà máy Ý.

Tại Tây Ban Nha, ArcelorMittal đang giữ giá chào bán HRC tại mức 450 Euro/tấn xuất xưởng, trong khi giá chào từ các nhà máy Ý tại thị trường Tây Ban Nha cũng đạt mức 450 Euro/tấn xuất xưởng. Tại Ý, nhà máy Ilva đang chào bán HRC tại mức 440 Euro/tấn xuất xưởng, tương đương với giá chào từ các nhà máy khác trong nước.

Tring khi đó, hàng nhập khẩu hiện vẫn ở mức nhẹ do không có sự chênh lệch lớn giữa giá nhập khẩu và giá nội địa. HRC từ Ấn Độ được chào bán ở mức 445 Euro/tấn CFR Ý hàng giao cuối tháng 5, trong khi giá từ Ukraina là 420-425 Euro/tấn CFR và Nga là 430 Euro/tấn CFR hàng giao tháng 4.

Dự báo diễn biến thị trường sắp tới không mấy khả quan do người mua vẫn kháng cự lại các chào giá cao. Platts hạ giá HRC và CRC hàng ngày xuống 2.5 Euro/tấn, còn lần lượt 450 Euro/tấn và 530 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong khi hạ giá xuất xưởng hàng tuần tại Nam Âu xuống 1.5 Euro/tấn, còn 437.5 Euro/tấn. 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi mặc dù niềm tin thị trường Mỹ suy yếu 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn không đổi trong tuần trước mặc dù tâm lý khách hàng ở thị trường Mỹ bi quan. Số lượng đặt mua giảm bớt có thể giúp đảm bảo cho HDG được sản xuất tại Mỹ có thời gian giao hàng ngắn hơn nhưng lại bằng với giá HDG Ấn Độ đang khiến những nỗ lực nâng giá của các nhà sản xuất thép Ấn Độ khó mà thành công được.

Kể từ tháng 01, JSW Steel đã nâng chào giá HDG xuất khẩu sang Mỹ ít nhất là 10 USD/tấn. Tuy nhiên, giá giao dịch tháng 03 của thép cuộn dày 0.3mm loại thường phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông vẫn duy trì từ 870-880 USD/tấn CFR bờ biển phía đông Mỹ trong ngày thứ Sáu. Mức giá này gồm phí vận chuyển khoảng 55-60 USD/tấn.

“Các khách hàng người Mỹ tỏ ra thờ ơ với hàng nhập khẩu hơn kể từ tuần trước. Ngòai ra, Giá HDG Ấn Độ cũng gần như tương đương với hàng được sản xuất tại Mỹ. Do đó, chúng tôi không những chỉ bất lợi về thời gian giao hàng mà giá cả cũng mất đi tính cạnh tranh”, một thương nhân ở Mumbai nói.

Khối lượng HDG Ấn Độ xuất tới Mỹ giảm dần trong những tuần gần đây. Ông này lý giải là do phải mất gần 4 tuần để HDG từ Ấn Độ vận chuyển tới Mỹ, trong khi chỉ cần 2 tuần là có được hàng giao từ các nhà máy trong nước.

Một nhà sản xuất thép ở Mumbai cho biết chi phí nguyên liệu cao hơn ở Ấn Độ cùng với việc thiếu hụt nguồn cung HDG trên thị trường Mỹ khiến việc bán HDG ở mức giá thấp hơn là điều không thể.

“ Các chi phí vận chuyển, dỡ hàng lên bờ cùng với chi phí sản xuất của chúng tôi đều tăng trong vài tuần qua. Chúng tôi không thể gánh nổi các mức phí ngày một tăng như thế này được”, ông nói.

Tuy nhiên, các chuyên gia trong ngành dự đoán giá giao dịch sẽ giảm trong tuần này vì hầu hết các nhà máy thép đang đổ xô xả bớt lượng hàng tồn hiện tại có trong kho trước khi họ chốt sổ sách kế toán thường niên vào ngày 31/03 tới.