Xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tăng dù tới Mỹ giảm, giá ổn định
Xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong nửa đầu năm lên 748.080 tấn, tăng 7.2% so với nửa đầu năm 2017, trong khi xuất khẩu thép cây lại giảm trong cùng giai đoạn.
Các nhà xuất khẩu đa dạng thị trường đến và tăng thị phần ở các khu vực khác nhau, trong khi xuất khẩu tới Mỹ, thị trường truyền thống lại giảm mạnh.
Giá chào bán thép dây nội địa và xuất khẩu tương đối ổn định trong mấy ngày gần đây, do tâm lý thị trường trì trệ. Đồng lira liên tục mất giá sau khi Mỹ tuyên bố áp dụng các biện pháp trừng phạt cho Thổ Nhĩ Kỳ vào tối thứ tư cũng đã làm tăng khó khăn tiền mặt trong nước.
Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ đã áp dụng lệnh trừng phạt lên 2 Bộ trưởng Thổ Nhĩ Kỳ là Abdulhamit Gul và Suleyman Soylu, cho biết họ đứng sau vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Đồng Lira Thổ Nhĩ Kỳ đã xuống mức thấp lịch sử so với dolla trong ngày thứ năm theo sau các chế tài và bắt đầu giao dịch mức 5.05-5.06 lira/USD, so với mức 4.92-4.93 lira/USD trong ngày thứ năm.
Dù vậy, giá niêm yết thép dây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng thứ năm, tùy khu vực, trong khi các giao dịch xuất khẩu gần đây chốt mức 585 USD/tấn FOB.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chỉ xuất khẩu 2.000 tấn thép dây tới Mỹ trong 6 tháng đầu năm, do chính sách thuế 25% của Mỹ khiến sản lượng xuất khẩu giảm mạnh so với mức 100.150 tấn cùng kỳ năm ngoái.
Bỉ là nhà nhập khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ lớn nhất trong nửa đầu năm với 161.150 tấn, tăng gấp 5 lần cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu tới Israel tăng 9.7% so với cùng kỳ năm ngoái lên 161.150 tấn, gấp 5 lần cùng kỳ năm ngoái.
Các lô hàng tới vài nước EU vẫn mạnh trong H1. Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu 75.250 tấn thép dây tới Hà Lan trong 6 tháng đầu năm, tăng gấp đôi năm ngoái trong khi tới Romania là 55.100 tấn. Xuất khẩu tới Ý đạt 45.465 tấn, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi tới Tây Ban Nha là 42.350 tấn.
Đối với các khu vực khác, xuất khẩu tới các nước Caribe gồm Haiti là 29,160 tấn, cộng hòa Dominica là 11.470 tấn. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng xuất khẩu 28.700 tấn thép dây tới Úc trong H1, trong khi Canada trở thành thị trường quan trọng nhất, với 20.000 tấn thép dây.
Các nhà nhập khẩu thép dây khác là Singapore với 18.400 tấn, Chile với 13.700 tấn, Ai Cập với 13.060 tấn, Phần Lan với 11.650 tấn, và Malaysia với 6.850 tấn.
Giá thép cây Thổ Nhĩ kỳ ổn định bất chấp thị trường phế suy yếu
Giá xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định hôm thứ Năm, với một doanh số bán vào Lebanon xác nhận giá trị thị trường hiện tại ở mức 540 USD/tấn FOB.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 540 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Năm, ổn định từ thứ Tư.
Một nhà máy tại Iskenderun được cho là đã bán được 3.000 tấn cho Lebanon với giá 550 USD/tấn CFR vào thứ Năm, phản ánh mức giá khoảng 540 USD/tấn FOB theo giá cước hiện tại, theo một số nguồn tin. Thỏa thuận đã được xác nhận bởi người bán.
Trong khi giá phế giảm xuống dưới 330 USD/tấn CFR, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã kháng cự mức giảm mạnh trong giá xuất khẩu thép cây do chi phí điện và điện cực cao hơn làm tăng chi phí của họ, khiến cho chênh lệnh giá giữa phế nhập khẩu và giá xuất khẩu thép cây ở mức cao 4 tháng là 217,75 USD/tấn.
Theo một số nguồn tin khác, 540 USD/tấn FOB cho thếp cây xuất khẩu đã đạt được vào thứ Năm, cũng được cho là phù hợp với mức giá trong nước hiện tại.
Tuy nhiên, một số nguồn tin công nghiệp dự kiến mức giá sẽ giảm xuống dưới 540 USD/tấn FOB trong những ngày tới.
Doanh số bán mới nhất đến Lebanon đã đạt được do mức tồn kho thấp trong nước này, với người mua chấp nhận một mức giá cao mà sẽ không được chấp nhận tại nhiều cửa hàng khác, theo một nguồn tin kinh doanh.
Một người bán Thổ Nhĩ Kỳ khác cũng coi giá giao dịch mới nhất là “bán hàng tốt”.
"[Giá trị thị trường] không dưới 540 USD/tấn nói chung, nhưng nếu bạn chắc chắn mua, bạn có thể mua thấp hơn," ông nói.
Cả xuất khẩu và nhu cầu trong nước hiện đang được coi là trì trệ, với một đồng lira dễ biến động và căng thẳng ngoại giao với Mỹ tiếp tục làm chậm lại nhu cầu mua.
"Các quy tắc của trò chơi đang thay đổi mỗi ngày. Thị trường này có quá nhiều áp lực lúc này", một nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ nói.
Giá xuất khẩu thép cuộn ổn định trong thị trường Biển Đen
Giá thép cuộn gioa ngay ở Black Sea đã ổn định trong tuần này, với một số nhà máy CIS tiếp tục giao dịch sản xuất tháng 8-9 và nhắm mục tiêu ổn định giá cả của họ, những người tham gia thị trường cho biết.
MMK của Nga được nghe là hoạt động tích cực trên thị trường Biển Đen. Cuộn dây cán nóng lớn của nhà máy này được bán với giá 570 USD/tấn FOB trong khi cuộn nhỏ hơn được bán với giá thấp hơn 10 USD/tấn; cuộn cán nguội được bán với giá 620 USD/tấn FOB, một thương nhân châu Âu cho biết.
Một thương nhân ở Trung Đông đã báo cáo các chào giá từ MMK với giá 575-585 USD/tấn FOB Biển Đen cho HRC lớn. "Người mua không tỏ ra hứng thú," anh nói.
Severstal được cho là tập trung vào việc bán hàng cho thị trường châu Âu từ biển Baltic, có nghĩa là không có hoạt động nào từ nhà máy được ghi nhận ở Biển Đen, các nguồn tin nói với Platts. Một nguồn tin thân cận với NLMK cho biết nhà máy này cũng không mặt ở thị trường Biển Đen.
Metinvest của Ukraine duy trì mức mục tiêu cho Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 580 USD/tấn CIF, tương đương với 560-565 USD/tấn FOB Biển Đen, giống như tuần trước, một nguồn tin cho biết. "Người Nga không có nhiều vật liệu [để bán], đó là lợi thế của chúng tôi", nguồn tin cho biết.
Một nguồn tin thương mại cho biết các nhà máy CIS có thể gặp khó khăn trong việc thúc đẩy sự gia tăng tại các thị trường Vịnh Địa Trung Hải và Ba Tư do sự cạnh tranh của nguồn cung từ Ấn Độ.
"Họ [Ấn Độ] đang trong màu mưa bão. Điều này tạo ra nhu cầu thấp trên thị trường nội địa để [các nhà máy Ấn Độ] tìm đến thị trường của chúng tôi", thương nhân nói. Ông cho biết HRC Ấn Độ đã chào giá 600 USD/tấn CFR UAE, có nghĩa là các nhà máy CIS sẽ cần phải chào giá 560-565 USD/tấn FOB để phù hợp với điều đó.
Tại Ai Cập, người mua dự kiến sẽ trả 560USD/tấn FOB cho HRC của CIS. Tuy nhiên, một thương nhân Ai Cập cho biết đã có "không có cách nào người mua [sẽ] nhận được 560 USD/tấn FOB cho HRC của CIS."
Platts đã định giá HRC hàng ngày ở mức 570 USD/tấn FOB Black Sea hôm thứ Năm, ổn định từ thứ Tư. Định giá CRC cũng không thay đổi ở mức 620USD/tấn FOB.
Thu mua tấm mỏng Mỹ chựng lại trong khi nhà máy nỗ lực duy trì giá cả
Người mua tại thị trường Mỹ đang trì hoãn mua hàng vì giá vẫn ở mức cao gần 10 năm trong khi các nhà máy không vội vàng để giảm giá đáng kể, theo các nguồn tin hôm thứ Năm.
Định giá cuộn cán nóng hàng ngày của Mỹ Platts TSI vẫn không thay đổi ở mức 909,75 USD/st trong khi định giá cuộn cán nguội hàng ngày của Mỹ Platts TSI tăng 1,25 USD lên 1.012,75 USD/st.
Các nhà máy sẵn sàng giảm giá chào còn 900 USD/st khá dễ dàng, theo một người mua. Anh ta vẫn chưa mua ở mức 900 USD/st hay dưới, nhưng đã có thể nhận được chào giá của một nhà máy mini giảm còn 880 USD/st cho 1.500 st. Không có giao dịch nào xảy ra khi người mua này đã không cam kết được các đặt hàng từ khách hàng của mình.
Tuy nhiên, ông ghi nhận rằng một nhà sản xuất tích hợp đang tự tin hơn trên thị trường và ít nhất sẵn sàng tiếp tục giá HRC cao hơn.
Thị trường HRC là 900-920 USD/st trong khi CRC và HDG là 1.000-1.020 USD/st, theo nguồn tin trung tâm dịch vụ. Ông hy vọng giá sẽ ổn định quanh mức 900 USD/st đối với HRC và 1.000 USD/st cho CRC và HDG.
Người mua này đã không kỳ vọng bất kỳ cách nào để giá suy giảm trong quý ba. Các nhà máy sẽ giảm giá trong một thời gian rất ngắn cho những người mua hàng khối lượng lớn. Một khi các giao dịch được chốt và các nhà máy bảo đảm đủ khối lượng, giảm giá sẽ không có sẵn cho người mua nhỏ hơn, ông nói thêm.
Một nguồn tin bên mua thứ hai nhất trí nhận xét này. Mặc dù thời gian giao hàng thu hẹp lại một chút, các nhà máy vẫn tiếp tục có đơn hàng tồn đọng và không ở trong trạng thái tuyệt vọng để bắt đầu cắt giảm giá giao dịch với bất kỳ ai muốn mua, ông nói thêm.
Một kịch bản giá tương tự đã diễn ra vào năm ngoái với giao dịch HRC nằm trong một biên đô giao động hẹp là 10 USD/st từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9. Giá sau đó giảm 5% đến giữa tháng 10. Khi giá bắt đầu giảm, người mua đã trì hoãn việc đặt các đơn đặt hàng cuối năm với kỳ vọng giảm sâu hơn, nhưng đã bị bất ngờ khi các nhà máy công bố giá tăng 40 USD/st. Sự tăng vọt xảy ra sớm hơn so với dự kiến của người mua trong quý tư cũng như không có giảm giá cuối năm như họ đã dự đoán.
Giá thu mua phế Mỹ tiếp tục giảm
Các nhà máy trên khắp miền Trung Tây đã báo cáo một số vấn đề về nhu cầu thu mua phế tháng 8 từ tối thứ Tư đến thứ Năm, giảm 20 USD/lt cho phế vụn và phế sạch và giảm 10 USD/lt cho phế prime. Đã có sự kháng cự trái chiều ở một số chủng loại phế nhất định ở một số khu vực từ các nhà cung cấp, nhưng không phổ biến rộng rãi trong một thị trường có giao dịch lớn bắt đầu từ ngày đầu tiên của tháng.
"Mọi người chào giá cho chúng tôi prime ở mức đi ngang, chúng tôi nói không, cảm ơn và bây giờ tất cả người bán giảm 10 USD," một nguồn tin cho biết. “Có đủ prime ở khắp nơi; không có lý do gì để đi ngang. Sau khi tăng lên 20 USD cho prime [tháng 6 và tháng 7], giảm 10 USD cho prime hiện không phải là vấn đề lớn.”
Một nhà máy đã có thể thu mua phế vụn tháng 8 với giá giảm 20 USD/lt vào thứ Tư.
“Nếu [các nhà máy cạnh tranh] không dọn sạch boong tàu, tôi đoán rằng tháng 9 lại tiếp tục giảm ,” một người mua nhà máy khác nói.
Nguồn cung tiếp tục là mối lo ngại đối với các đại lý phế, những người đã phải giảm giá bán trong mùa hè này giữa lúc giá phế vụn không gỉ phục hồi.
Một shredder người đã báo cáo nguồn cung hàng ngày giảm 20% so với tháng trước cho biết ông sẽ phải tiếp tục giảm giá của mình để bù đắp cho sự sụp đổ gần đây của thị trường zorba và giá mua giảm 20 USD/lt tại các nhà máy thép.
"Để lấp đầy đầy các đơn đặt hàng phế vụn tại mức giảm 20 USD sẽ dựa vào xuất khẩu," ông nói. "Tôi nghĩ Thổ Nhĩ Kỳ tồi tệ hơn nhưng tôi nghĩ rằng nguồn cung cũng chậm lại."
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc không đổi
Thị trường xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định do người bán giữ giá còn người mua xa lánh.
Một nhà máy lớn Trung Quốc vẫn chào bán mức 560 USD/tấn FOB lý thuyết giao tháng 9, không đổi so với ngày trước. Số khác vẫn chưa chào bán trở lại. Một nhà máy phía bắc Trung Quốc cho hay giá nội địa quá cao để có thể cạnh tranh cho thị trường xuất khẩu.
Tại Hồng Kong, các nhà môi giới cho hay các thương nhân đang mời thầu mức 555-558 USD/tấn CFR thực tế cho thép cây 10-40mm Ấn Độ nhưng người mua cho rằng giá quá cao. Mọit người mua cho biết không hứng thú với thép cây Ấn Độ do các nhà máy nước này trước đây không xuất khẩu tới Hồng Kong. Giá này tương đương 552-555 USD/tấn FOB Trung Quốc thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn.
Các nhà máy Trung Quốc sẵn sàng chào bán chỉ khi người mua yêu cầu, một nhà môi giới cho hay, và ông đã nhận được giá chào 580 USD/tấn CFR Hồng Kong, hơi cao, tầm 567 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tại Singapore,một nhà chế tạo thép báo cáo giía chào thép cây Ấn Độ tầm 554 ÚD/tấn lý thuyết giao tháng 10 khối lượng 20.000 tấn từ một thương nhân. Một thương nhân cho biết giá bán thấp nhất là 550 USD/tấn CFR. Giá này tương đương 557 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.
Dù giá phế CFR Thổ Nhĩ Kỳ giảm hơn 7 USD/tấn, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ khăng khăng giá bán thấp nhất là 550 USD/tấn CFR cho khối lượng tối thiểu là 50.000 tấn dựa vào phí vận chuyển cao 37 USD/tấn. Giá này tương đương 550 USD/tấn CFR cho khối lượng tối thiểu 50.000 tấn dựa vào phí vận chuyển 37 USD/tấn. Giá này tương đương 562 USD/tấn FOB Trung Quốc, không có giao dịch nào chốt mức 540 USD/tấn CFR nhue giá chào mua.