Giới xuất khẩu Ấn Độ vẫn chưa đưa ra giá chào xuất khẩu mới tại thị trường giao ngay sau kỳ nghỉ tết dương lịch do khách hàng Trung Quốc chưa quay lại thị trường. Các nhà xuất khẩu đang chờ xem Trung Quốc sẽ phản ứng như thế nào với thông báo nâng thuế xuất khẩu của chính phủ Ấn Độ.
Các nhà xuất khẩu tiếp tục dự báo sức mua tuần này sẽ cải thiện do các nhà máy được cho là sẽ tái tích trữ quặng trước kỳ nghỉ tết âm lịch cuối tháng 1. Giới xuất khẩu dự báo sức mua phục hồi sẽ khiến giá giao ngay tăng. Giá xuất khẩu cao hơn sẽ giúp các nhà xuất khẩu bù đắp phần nào chi phí, nhất là đối với quặng chất lượng cao khoảng 10-12 USD/tấn.
Mức giao dịch đối với quặng 63.5%/63% Fe vào cuối tuần trước có giá bình quân 142-145 USD/tấn cfr trước khi thị trường đóng cửa ngừng kinh doanh vì nghỉ tết dương lịch.
Một nhà khai khoáng quặng Ấn Độ đã nhận mức giá chào mua 146 USD/tấn cfr hoặc hơn tuần trước đối với lô hàng quặng 63.5%/63% Fe trọng lượng 45.000 tấn.”chúng tôi vẫn chưa chốt giá thầu. Chúng tôi cần xem xét liệu bán với mức giá hiện tại có khả thi hay là có phù hợp với mức thuế suất mới hay không.”
“nhu cầu vẫn ảm đảm, thị trường sẽ không thể chấp nhận mức giá cao hơn từ các nhà cung cấp Ấn Độ do giá Úc và Brazil cạnh tranh hơn, tăng thuế xuất khẩu có thể phá hỏng mọi thứ,” một nhà kinh doanh quặng lớn nói.
Giá HRC từ các nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ đang theo đà đi lên do giá nhập khẩu được dự báo tăng vào tuần thứ hai tháng 1.
Một nhà sản xuất tích hợp ở phía bắc trong nước hiện đang chào HRC với giá 660-670 USD/tấn xuất xưởng, tăng 20 USD/tấn so với giá cuối tháng 12. Giá CRC của nhà máy là 780-800 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào thép tấm từ nhà máy quanh mức 730-740 USD/tấn và HDG là 830-860 USD/tấn, tăng 20-30 USD/tấn.
Một số thương nhân và trung tâm dịch vụ tin rằng nhà máy tích hợp đã đẩy giá lên cao do dự báo giá nhập khẩu thép dẹt vào giữa tháng 1 sẽ tăng. Một số người cho rằng nhà máy đang nỗ lực cân bằng giá thép cây và HRC tại thị trường nội địa do giá thép cây tăng mạnh nhờ giá phế gần đây mắc hơn.
Các nhà sản xuất thép dẹt lò điện Thổ Nhĩ Kỳ chưa thay đổi giá của mình. HRC từ các nhà máy này vẫn chào mức 640-650 USD/tấn xuất xưởng.
Một số nhà sản xuất ống không hàn Bắc Âu đang nhắm tới việc giảm giá Q1 năm 2012. Giá được dự báo giảm 10-20 EUR/tấn do cầu thấp hơn.
Tuy nhiên, giá được cho là không có cơ hội rớt mạnh hơn. Nhìn chung xu hướng thị trường khá mờ mịt.
Tháng 12 thông thường là một tháng kinh doanh khá bận rộn.” chúng tôi đã nhận khá nhiều các đơn đặt hàng từ người mua cho tới lễ giáng sinh. Giá vào khoảng 1.020 EUR/tấn (1.331 USD/tấn) giá cơ bản,” một nhà sản xuất nói.
Giá chào ống không hàn tại Đức là 1.000 EUR/tấn cơ bản đối với loại S355 đường kính 60-160mm.
Hiện Nhu cầu tiêu thụ ống không hàn tại Bắc Âu mạnh nhất là từ Đức và Scandinavia. Ngành công nghiệp máy móc và ô tô cũng đang đặt mua.
Các nhà tham gia thị trường nói rằng giá ống không hàn đã trở yếu nhưng họ dự báo giá sẽ vẫn giữ mức này trong dài hạn.
Theo nguồn tin giao dịch quốc tế, nhật khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ kể từ cuối tháng 12 còn chậm do lễ giáng sinh và kỳ nghỉ tết dương lịch, giá kể từ tuần trước đã giữ ổn định.
Một lô hàng trọng lượng 40.000 tấn HMS 1&2 80:20 từ các nhà cung cấp Mỹ bán ra với giá 466,5 USD/tấn cfr. Một lô hàng hỗn hợp gồm 25.000 tấn phế HMS 1&2 70:30 và 10.000 tấn phế vụn được các nhà cung cấp Châu Âu bán giá 442,5-460 USD/tấn cfr. và một lô hàng gồm 10.000 tấn phế bonus và 5.000 tấn phế A3 từ Baltic bán ở mức 462 USD/tấn cfr, tất cả mức giá trên tương tự như tuần trước.
Giá chào từ tuần trước giữ không đổi. Phế vụn Mỹ được chào mức 475 USD/tấn cfr trong khi phế HMS 1&2 80:20 chào giá 470 USD/tấn cfr. HMS 1&2 80:20 từ khu vực Châu Âu có giá 460 USD/tấn cfr còn giá phế HMS 1&2 70:30 vẫn nằm vùng 445-450 USD/tấn cfr.
Giá phế A3 tại CIS đã nhích nhẹ kể từ tuần thứ 03 tháng 12.Gần đây phế được bán giá 453 USD/tấn cfr Marmara, tăng 3 USD/tấn so với giá lúc trước.
Thị trường nhập khẩu thép tấm đóng tàu và thép tấm mỏng cán nóng tại Singapore tháng trước ảm đảm. Trước khi thị trường đóng cửa nghỉ lễ giáng sinh và tết dương lịch, giá chào thép tấm đóng tàu từ Trung Quốc vào nước này hay tin quanh mức 675-680 USD/tấn cfr và giá chào từ Ukraine là 680 USD/tấn cfr.
Một nhà kinh doanh tại Singapore cho hay các nhà nhập khẩu đang chờ giá chạm mốc 650 USD/tấn cfr trước khi đặt hàng. Nhà kinh doanh này cho biết thêm hay tin một lượng nhỏ thép từ Ukrainian được đặt mua ở 680 USD/tấn cfr.” Nhà máy kỳ vọng thị trường sẽ phục hồi nhẹ tuy nhiên người mua vẫn không lạc quan.”
Giá chào thép tấm mỏng xuất xứ từ Trung Quốc phổ biến 640 USD/tấn cfr và một vài giao dịch khối lượng nhỏ đã được chốt ở mức này. Thép tấm thương mại từ Trung Quốc được chào vào Đông Nam Á tại mức 640 USD/tấn cfr hoặc hơn.
“tháng trước không có nhiều lực mua trên thị trường do chiều hướng thị trường chưa rõ ràng các nhà nhập khẩu luôn giữ tâm thế nghe ngóng. Những ai cho rằng giá sẽ tăng khả năng quay trở lại thị trường tuần này hoặc tuần tới trước khi thị trường đóng cửa nghỉ tết nguyên tiêu Trung Quốc,” một nhà kinh doanh nói.
“thị trường chỉ vài giao dịch lẻ tẻ, bất kỳ nhu cầu nào cũng chỉ là cho mục đích bổ sung hàng tồn,” một nguồn tin nội bộ tiết lộ. Tiêu thụ thép tấm đóng tàu suy yếu xuất phát từ suy thoái trong ngành công nghiệp đóng tàu.
Nhà sản xuất Yieh United Steel Corp (Yusco) Đài Loan đã nâng giá xuất khẩu thép tấm và cuộn không gỉ cán nguội và nóng dòng 300-series tháng 1 khoảng 60-120 USD/tấn do giá nickle cao hơn. Nhà máy cũng đã nâng giá với cùng sản phẩm trên tại thị trường nội địa khoảng 2.000 Đài Tệ/tấn (318 USD/tấn). Đây là lần tăng đầu tiên đối với giá austenitic kể từ tháng 9.
Kết quả là giá HRC 304 2mm và CRC 304 2B 2mm nội địa của nhà máy được chốt mức 97.000-97.500 Đài Tệ/tấn (3.202-3.219 USD/tấn) và 101.000 Đài Tệ/tấn. Yusco đã không công bố giá xuất khẩu nhưng nguồn tin ước tính giá xuất khẩu CRC sẽ là 3.000 USD/tấn dựa vào giá chào tháng 12 tới thương nhân.
Yusco cũng đã điều chỉnh tăng giá xuất khẩu thép dẹt 400-series khoảng 30-50 USD/tấn và nâng giá HRC và CRC 430 nội địa 1.000 Đài Tệ/tấn.
Do nhu cầu tương đối thấp, lý do chính khiến nhà máy điều chỉnh nâng giá là do giá nickle cao hơn. Thị trường thép Đài Loan cũng tiếp tục đối mặt áp lực từ nhập khẩu thép từ Trung Quốc tăng.” sự gia tăng nhập khẩu thép Trung Quốc kể từ năm 2010 đã cản trở mức tăng trưởng giá thép ở Đài Loan,” một nhân viên công ty nói.
Công ty đã đe dọa các hành động chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu giá rẻ nhất là từ Trung Quốc. Yusco đã không chính thức đệ đơn khiếu nại nhưng tiếp tục kiểm soát tình hình.
Nhà máy hiện sản xuất 75.000 tấn/tháng thép thô không gỉ với công suất 80.000-83.000 tấn/tháng tại xưởng Cao Hùng ở phía nam Đài Loan. Công ty dự báo sản lượng tháng này sẽ ở mức tương tự.
Posco giữ giá cuộn không gỉ tháng 1 ổn định
Theo nguồn tin từ Posco cho hay, nhà máy đã giữ giá cuộn cán nóng và nguội cả hai mặt hàng austenitic và ferritic nội địa tháng 1 tương tự như giá tháng 12.
Theo đó, HRC và CRC 304 của nhà máy có giá lần lượt nằm ở 3,6 triệu Won/tấn (3.110 USD/tấn) và 3,87 triệu Won/tấn (3.343 USD/tấn), giá không đổi trong 4 tháng liên tiếp.Trong khi, giá HRC và CRC 430 được yết mức 2,04 triệu Won/tấn và 2,42 triệu Won/tấn.
Nguồn tin công nghiệp cho hay, vì giá nickle phục hồi các chuyên gia thị trường tin rằng giá cuộn nội địa đã chạm đáy do đó đã dẫn tới quyết định giữ giá của nhà sản xuất Posco.
Theo một báo cáo công bố bởi hiệp hội sắt thép Hàn Quốc(Kosa) vào hồi cuối tháng 12, nhu cầu HRC không gỉ năm 2012 của Hàn Quốc được dự báo cải thiện hơn năm 2011 tuy nhiên đà tăng chỉ khoảng 2%. Kosa chú ý tổng lượng tiêu thụ HRC không gỉ năm nay sẽ tăng nhẹ lên 2,24 triệu tấn so với con số 2,2 triệu tấn của năm 2011. Tổng xuất khẩu HRC không gỉ cũng được dự báo tăng 2% lên 550.000 tấn năm nay.
Tổng nhu cầu CRC không gỉ của Hàn Quốc năm nay được dự báo tương tự như năm ngoái do nhu cầu từ người dùng cuối được dự báo yếu kém, bất chấp xuất khẩu CRC sẽ tăng 2%.
Tại thị trường nội địa, giá CRC không gỉ 304 2mm nguồn từ các nhà máy trong nước tuần này được chốt tại 3,3-3,4 triệu Won/tấn (2.851-2.937 USD/tấn), mất 50.000-100.000 Won/tấn (43-86 USD/tấn) so với giữa tháng 12.