Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 04/08/2016

Thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục trầm lắng, giá suy yếu

Thị trường tấm mỏng tại Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục yên ắng kể từ cuộc đảo chính quân sự thất bại vào ngày 15/07 – do người mua có xu hướng đặt nhiều lô hàng phù hợp với nhu cầu của mìh, nguồn tin công nghiệp cho biết hôm thứ Tư. “Mặc dù tồn kho vẫn ở mức thấp trên thị trường, chúng tôi đã không thực hiện bất kỳ giao dịch đáng chú ý nào, vốn đang nâng cao vấn đề về dòng tiền trên thị trường, trong bối cảnh lira mất giá so với USD,” một giám đốc điều hành trung tâm dịch vụ lớn nói.

“Chúng tôi đã tiến hành một cuộc khảo sát giá từ các nhà cung cấp trong nước và các nhà cung cấp nhập khẩu hôm nay. Rõ ràng là giá trong nước hiện đang rẻ so với giá nhập khẩu, nếu tính đến thuế nhập khẩu, trong bối cảnh nhu cầu trong nước chậm chạp. Chúng tôi cách ly riêng xu hướng tiêu cực khỏi thị trường toàn cầu sau cuộc đảo chính. Các diễn biến chính trị tiếp tục ảnh hưởng đến các động lực thị trường và chúng tôi hiện không thể nhìn thấy một cách rõ ràng xu hướng kinh doanh của mình. Điều này đang ảnh hưởng đến các quyết định mua bán trên thị trường,” ông nói.

“Phạm vi giữa giá thép cây và HRC đã thu hẹp đáng kể trong những tuần gần đây. Mức giá tấm mỏng thấp này đang làm xói mòn lợi nhuận của các nhà sản xuất tấm EAF Thổ Nhĩ Kỳ. Một mức tăng vọt 40-50usd  trong giá tấm mỏng địa phương sẽ không làm tôi bất ngờ, nếu chúng tôi có thể nhìn thấy một ánh sáng ở cuối đường hầm,” ông nói thêm.

Giá chào cho HDG dày 0.5mm vẫn ở mức 550-580usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán và khối lượng, trong khi chào giá xuất khẩu của  các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức tương tự, nguồn tin cho biết. Chào giá trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho PPGI 9002 dày dày 0.5mm cũng ổn định tuần này tại 650-680usd/xuất xưởng.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ của thị trường HRC và CRC trong nước vẫn chậm chạp và giá đi ngang trong biên độ hẹp hơn là 410-420usd/tấn và 500-510usd/tấn tương ứng.

Giá HRC Mỹ giảm nhưng người mua không kỳ vọng sẽ giảm mạnh

Sau nhiều tuần thu mua trì trệ và chỉ số giá suy yếu, HRC của Mỹ đã giảm hôm thứ Tư.

Platts đã giảm mức cao nhất trong phạm vi định giá  HRC hàng ngày 10usd, mang lại phạm vi còn 610-620usd/tấn ngắn từ  610-630usd/tấn ngắn, trong khi định giá CRC vẫn ở mức 820-840usd/tấn ngắn. Cả hai đều được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

“Tôi nghĩ chúng tôi đã giữ nguyên về giá cả, và sẽ có một sự suy giảm vừa phải,” một người mua cho biết hôm thứ Tư. “Giá cả không sẽ giảm 30usd. Có lẽ 10usd hoặc 20usd.”

Ông cho biết một nhà máy đã giảm giá HRC giao ngay 10usd/tấn ngắn cỏn 610usd/tấn ngắn  xuất xưởng, và ông tin rằng có thể đạt được mức 600usd/tấn ngắn với đơn hàng lớn hơn. Một nhà máy khác cũng báo giá cho ông dao động 600-610usd/tấn ngắn cho đơn đặt hàng giao ngay.

Ngoài giá giao ngay thấp hơn, người mua này cho biết các nhà máy đang tăng nguồn cung sẵn có liên quan đến hợp đồng của mình. Cho rằng con số tháng Chín sẽ thấp hơn so với chào giá tháng Tám, ông cho biết hầu hết những người mua có thể sẽ chờ đặt hàng nếu có thể.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết một số nhà máy Midwest đang tìm kiếm có đủ đơn hàng tháng Tám đang chào giá đến khách hàng trong khu vực ở bên dưới dưới 600usd/tấn ngắn, nhưng những nhà máy khác đã không muốn đi theo mức giá đó. Ông cho biết ông rất quan tâm xem xét liệu việc giảm giá này sẽ tạo ra đơn đặt hàng bổ sung hay không.

Ngay cả tấm mỏng mạ kẽm, nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết đã đàm phán một nhà sản xuất giảm còn 815usd/tấn ngắn xuất xưởng. Mặc dù giá đã thấp hơn so với mức hiện nay là 830usd/tấn ngắn, ông cho rằng thị trường hiện nay là “đang giảm nhưng không sụp đổ.”

Một thương nhân cho biết đã mua một số HRC từ 610- 620usd/tấn ngắn và giá cả bây giờ phụ thuộc vào mối quan hệ nhà máy/khách hàng. Hầu hết các đơn đặt hàng hiện tại ít hơn 500  tấn ngắn, ông nói thêm, vì rất ít người muốn gia tăng tích trữ hàng tồn kho, đặc biệt là khi giá cả đã ở một phạm vi ổn định trong một thời gian trước hôm thứ Tư.

Định giá HRC EU

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở 410-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Tư.

Thị trường được biết tiếp tục yên ắng hôm thứ Tư với các hoạt động tối thiểu trong thời gian mùa hè. Một nhà cung cấp của Đức xác nhận giá nhà máy Tây Bắc châu Âu ổn định ở mức 400-420euro/tấn và cho biết thị trường đã bắt đầu chuẩn bị cho một sự phục hồi trong quý IV.

Nhập khẩu vẫn không cạnh tranh ở Bắc Âu, trong khi đó, với các nguồn xác nhận chào giá khoảng 400euro/ tấn gia đến Đức. Định giá Platts vẫn không thay đổi hôm thứ Tư tại 400-405euro/tấn CIF Antwerp.

Định giá thép cây GOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong ngày tại mức 380-390usd/tấn FOB vào thứ Tư, với một mức trung điểm là 385usd/tấn.

Một nguồn tin tại một nhà máy tích hợp Thổ Nhĩ Kỳ cho biết họ đã bán hàng cho UAE với giá trung bình là 390usd/tấn CIF trọng lượng lý thuyết, tương đương với khoảng 380-385usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Ông nói thêm rằng mức giá cao hơn, 390-395usd/tấn FOB, là có thể đến các thị trường khác như châu Âu và Mỹ.

Một thương nhân ở châu Âu cho biết có thể đặt thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 375-38usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ nhưng hoạt động đặt mua đã chậm lại.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các nhà xuất khẩu đã im lặng và không công bố giá mới, mặc dù một số chào giá đã được nghe nói ở mức 390usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Đối tác của ông nói thêm rằng các nhà sản xuất EAF của Thổ Nhĩ Kỳ đang báo giá 380usd/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương mức 390usd/tấn FOB trọng lượng thực tế. Các thương nhân cho rằng các nhà máy đã sẵn sàng để chấp nhận mức 380usd/tấn FOB trọng lượng thực tế với chào giá mua nghiêm túc.

Platts duy trì định giá ổn định, trong phạm vi 380-390usd/tấn FOB tiếp tục phản ánh giá đặt mua mới nhất và các con số của giá thực tế được cho biết bởi những người thanh gia thị trường.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở 320usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Tư, không đổi trong ngày.

Một thương nhân  phôi thanh Biển Đen cho biết không có thay đổi giá chào trong vòng hai tuần qua, với giá ổn định tối thiểu ở mức tối thiểu là 320usd/tấn FOB Biển Đen. Điều này đã được xác nhận bởi một nhà kinh doanh đã không dự đoán bất kỳ sự suy yếu nào từ các nhà máy miễn là đà đi lên ở Trung Quốc tiếp tục.

Các nguồn tin thị trường khác cũng nói tương tự. Tại Dubai, một thương nhân cao cấp đưa ra giá chào bán tại mức 320-325usd/tấn FOB Biển Đen. Một nguồn tin Ukraina nói rằng một chào giá mua từ một người dùng cuối trong tuần là 327usd/tấn CIF Aliaga, mức quá thấp đối với các nhà máy CIS để chấp nhận vì các nhà máy này đang duy trì báo giá ít nhất là 333-334usd/tấn CIF Aliaga, một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Platts duy trì định giá tại 320usd/tấn FOB do chào giá thấp nhất có thể và thực tế được thể hiện bởi một số người tham gia thị trường mà nhà sản xuất đã mạnh mẽ từ mức giá nào dưới ngưỡng 320usd/tấn FOB.

Các nhà máy Mỹ ra sức tìm kiếm mức giá phế giảm hơn nữa, một số đàm phán đã chựng lại

Phế cũ đã ổn định hôm thứ Tư tại vùng Trung Tây Mỹ và giá bán phế prime tiếp tục giao dịch tại mức giảm 10usd/tấn dài, trong khi các cuộc đàm phán bị đình trệ trong một số khu vực do các nhà máy tìm cách giảm giá thêm cho hoạt động thu mua tháng Tám của mình.

Giá bán ban đầu đến các nhà máy Detroit thứ Ba nghe nói đi ngang cho phế cũ và giảm 10usd/at61n dài cho phế prime, và được lặp lại tại các nhà máy Trung Tây khác vào hôm thứ Tư. Do dó khoảng cách giá giữa phế busheling no 1 và phế vụn còn khoảng 20usd/tấn dài cho hầu hết các nhà máy. 

Các chương trình mua phế tháng Tám khác chỉ vừa được bắt đầu, vì các nhà máy tìm cách giảm giá thêm.

“Chúng tôi mong muốn nhận được giá đi ngang cho phế cũ,” một đại lý vùng Trung Tây nói. “Chúng tôi đã không thể có được giá phế prime... vì các nhà máy đang cố gắng để đưa thị trường giảm 15-20usd/tấn dài ở Trung Tây, nhưng họ vẫn chưa mua tại mức đó.”

Một chương trình mua nhỏ từ một nhà máy minni ở  Iowa do đợt bảo trình sắp tới đã giải phóng nguồn cung phế đang gây sức ép lên thị trường St. Louis và Chicago.

Một đại lý mô tả những thị trường Trung Tây khác bên ngoài của Detroit là “chuyển động chậm” vào hôm thứ Tư.

Platts duy trì định giá phế vụn hàng ngày ở 240-245usd/tấn dài đã giao Trug Tây vào thứ Tư.

Triển vọng giảm giá tại thị trường Đông Nam đã tăng lên, vì các nhà máy đã duy trì một lập trường cứng rắn hơn do đơn đặt hàng suy yếu và nhập khẩu phế đang đến trong suốt mùa hè.

Một đại lý tin rằng chênh lệch 45usd/ tấn dài giữa busheling no 1 và phế vụn sẽ giảm xuống còn khoảng 20usd/tấn dài trong  tháng Tám. “Có thể phế vụn duy trì ổn định và prime giảm 25usd.”

Một nhà máy ở Đông Nam nghe nói đang chào mua ở mức giảm 30usd/tấn dài cho prime từ một vài nhà cung cấp của mình.

Prime “chắc chắn giảm 20usd nếu phế vụn đi ngang,” một nhà cung cấp khác cho biết. “Nếu phế vụn giảm 10usd, prime sẽ đi xuống 30usd. Mức chênh lệch chỉ là quá rộng và prime sẽ trở lại thị trường, cả trong nước và nhập khẩu.”

Một nhà môi giới nói rằng đang có các tàu chở phế nhập khẩu “và có một số gang thỏi giá rẻ tại New Orleans, nhưng giảm 30usd thì khá căng,” ông nói.

Cuộn trơn Châu Á vẫn đang tăng trên thị trường trầm lắng

Hoạt động thu mua cuộn trơn nhập khẩu im ắng ở Đông Á từ ngày 28/7-3/8 vì khách hàng phản đối chào giá cao hơn của các nhà máy Trung Quốc. Hôm 3/8, Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm là 347-349 USD/tấn FOB, tăng 8 USD/tấn so với 1 tuần trước đó.

Các thương nhân cho biết nhà máy chỉ đồng ý chiết khấu nhỏ vào lúc này vì nhà máy vẫn lạc quan về triển vọng thị trường cho tháng này. Một số nhà máy xuất khẩu chủ chốt ở miền bắc và đông chào giá 350-355 USD/tấn FOB, tăng 5-10 USD/tấn so với tuần trước đó.

Phản hồi lại thị trường Trung Quốc mạnh lên, người mua ở Việt Nam đã nâng giá hỏi mua lên 355 USD/tấn CFR TP.HCM (tức 347 USD/tấn FOB phí vận chuyển 8 USD/tấn). Nhưng các thương nhân cảnh giác với việc ký kết hợp đồng ở mức giá này bởi vì chi phí đầu vào cao khi mua từ các nhà máy vì họ do dự để hạ chào giá.

Trong khi đó, có ít chào giá được nghe nói trong ngày thứ Tư. “Thật là vô nghĩa để đưa ra chào giá khi có ít khách hàng yêu cầu”, một thương nhân ở miền đông giải thích.

Cũng trong ngày 03/8,  Jiujiang Iron & Steel, một nhà xuất khẩu ở tỉnh Hà Bắc đã nâng giá niêm yết hàng tuần trong nước thêm 15 NDT/tấn (2 USD/tấn) lên 2.300 NDT/tấn (346 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT.

Cùng ngày tại thị trường giao ngay Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.480-2.520 NDT/tấn (373-380 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT, tăng 65 NDT/tấn (10 USD/tấn) so với tuần trước đó.

Shagang cam kết nguồn cung HRC nhiều hơn trong tháng 8

Hôm thứ Tư, Shagang đã thông báo tới các đại lý rằng công ty sẽ cung cấp cho họ toàn bộ 90% khối lượng HRC đã ký trong hợp đồng vào tháng này, cho thấy sự cải thiện về lượng so với tháng trước khi việc giao hàng chỉ đáp ứng 35% khối lượng trong hợp đồng.

Nguồn cung trong tháng 7 tương đối thấp, phần lớn là do Shagang tiến hành bảo trì một dây chuyền cán nóng trong khoảng 1 tháng, việc đóng cửa này đã làm mất khoảng 250.000 tấn sản lượng HRC. Do sản lượng HRC của Shagang bây giờ đã trở nên bình thường nên hoàn thành đơn đặt hàng tốt hơn.

Tuy nhiên, một số thương nhân cũng cho rằng một yếu tố khác đằng sau cam kết giao hàng của Shagang trong tháng này là vì các nhà máy trong đó có cả Shagang có thể kiếm được lợi nhuận cao ở mức giá hiện nay.

Đại diện  Shagang tuyên bố rằng kể từ tháng 7 giá thép tăng đã khuyến khích đơn hàng từ cả thị trường trong và ngoài nước. Ông cho biết đơn hàng xuất khẩu nhận được trong tháng 7 tăng khoảng 11% so với tháng 6, và ông tự tin về kết quả kinh doanh của mình trong tháng này.

Shagang đã nâng giá xuất xưởng cho HRC Q235 5.5 1500mm tháng 8 thêm 200 NDT/tấn (30 USD/tấn) lên 2.800 NDT/tấn hôm thứ Tư, khẳng định triển vọng lạc quan của mình về thị trường tháng này.

Thế nhưng một số thương nhân và nhà máy tranh luận rằng nguyên nhân chính đằng sau sự phục hồi của giá thép là do nguồn cung sụt giảm tạm thời trong tháng trước. Họ dẫn chứng việc ngưng hoạt động để bảo trì thường niên của các nhà máy lớn, lũ lụt dọc sông Dương Tử và ở miền bắc nước này, ngoài ra còn phải kể đến các cuộc thanh tra môi trường ở tỉnh Giang Tô, Hà Nam và Sơn Đông đã khiến một số nhà máy phải đóng cửa.

Nguồn tin từ Maanshan Iron & Steel xác nhận rằng việc bảo trì tại nhà máy của ông trong tháng trước và làm mất khoảng 100.000 tấn sản lượng HRC. Ông cho biết phần lớn hoạt động bảo trì thường niên của các nhà máy sẽ được hoàn tất trong tháng này và nhu cầu trực tiếp từ các nhà sản xuất sẽ bắt đầu hồi phục từ giữa tháng 8.

Giá HRC Ấn Độ duy trì ổn định do lực cầu yếu

Giá HRC tại Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần này với không có sự thay đổi nào trong nhu cầu. Platts định giá HRC IS 2062 A/B dày 3mm duy trì mức 26.500-27.500 Rupees/tấn (396-411 USD/tấn) xuất xưởng.

Hoạt động sản xuất trì trệ cùng với sức tiêu thụ xe hơi và thiết bị suy yếu trong suốt mùa mưa cũng đã góp phần khiến nhu cầu HRC giảm sút.

Tồn kho tại các nhà máy trong nước tiếp tục tăng. Vào cuối tháng 6, theo số liệu công nghiệp gần đây nhất, các nhà máy liên hợp Ấn Độ đang còn tích trữ 5,22 triệu tấn thép, tăng 1,08 triệu tấn so với tháng 5. Tuy nhiên, một thương nhân đầy hy vọng rằng nhu cầu sẽ cải thiện trong vài tháng tới khi mùa mưa tạm lắng vào tháng 9.

Trong khi đó, hôm 2/8 Bộ Thương mại đã công bố biên độ phá giá sơ bộ 25%-160% cho HRC nhập khẩu dưới mức giá quy định 474 USD/tấn, và HRS có giá dưới 557 USD/tấn. Đồng thời, việc thảo luận đang tiếp tục về việc gia hạn chính sách giá nhập khẩu tối thiểu của Ấn Độ mà theo kế hoạch sẽ hết hạn vào thứ Năm.

Thị trường HRC Châu Á chững lại do giá Trung Quốc suy yếu

Giá HRC giao ngay ở Châu Á chững lại trong ngày thứ Tư vì giá Trung Quốc chuyển sang suy yếu. Các thương nhân với hàng tồn trong tay đã vội vàng thanh lý càng sớm càng tốt, vì sợ giá sẽ tiếp tục rớt trong tương lai gần.

Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 363-368 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.690-2.700 NDT/tấn (406-407 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Các nhà máy Trung Quốc duy trì chào giá không đổi hay trên 370 USD/tấn FOB với giá mua hạn chế nhận được. Người mua ở Việt Nam chỉ hỏi mua với giá 370 USD/tấn CFR Việt Nam là nhiều nhất. Một công ty chào giá 385 USD/tấn FOB cho SS400 HRC để giao đầu tháng 10.

“Các thương nhân còn hàng tồn sẽ bán hết các lô hàng do giá Trung Quốc suy yếu”, một thương nhân ở Thượng Hải cho hay. Hai thương nhân người Việt nghe nói hai giao dịch với khối lượng 8.000 tấn thép cuộn SAE được sản xuất bởi một nhà máy lớn ở đông bắc được chốt hôm thứ Ba với giá lần lượt là 385 USD/tấn CFR Việt Nam  và 391 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 9.

Một trong những thương nhân người Việt cũng nghe nói một giao dịch khác cho 8.000 tấn thép cuộn SAE được bán với giá 385 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Tư để giao tháng 9 và 10. Một thương nhân ở Hong Kong tin giao dịch này là có thể vì chính ông đã nhận được giá hỏi mua 385 USD/tấn CFR Việt Nam  cho thép cuộn cùng loại.

Khách hàng người Việt vẫn có thể mua HRC từ các nước khác. Một thương nhân nghe nói  một nhà máy Ấn Độ đã bán một số thép cuộn SAE với giá 383 USD/tấn CFR Việt Nam và một nhà máy khác chào giá 385 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE hôm thứ Tư, cả hai đều để giao tháng 9.

Một lô hàng 5.000 tấn thép cuộn SAE được sản xuất bởi Baosteel đang được chào giá bởi các thương nhân là 400 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 9.

 Thép cây Châu Á tăng do người mua hỏi giá cao hơn

Giá thép cây giao ngay ở Châu Á một lần nữa lại tăng trong ngày thứ Tư, do người mua ở nước ngoài tìm cách bắt kịp chào giá cao hơn từ các nhà xuất khẩu Trung Quốc, mặc dù giá trong nước giảm. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 326-330 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 0,5 USD/tấn so với thứ Ba.

Một số người mua Hong Kong háo hức mua ở mức 335 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 329 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 6 USD/tấn.

Nhưng các nhà máy không sẵn sàng chấp nhận bất cứ mức nào gần với giá này. Một nhà máy ở miền đông đã nâng chào giá thêm 5 USD/tấn trong ngày thứ Hai lên 340 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết với dung sai khối lượng 3%.

Một nhà máy khác ở miền bắc Trung Quốc chào giá 350 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, nhưng thật vô ích để đưa ra bất cứ chào giá nào bởi vì không ai mua ở mức giá hiện nay. Chào giá tương tự được chào giá bởi một nhà máy khác ở miền bắc.

Một nhà máy ở đông bắc chào giá 350 USD/tấn CFR Hong Kong FOB trọng lượng thực tế (tương đương 340 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 10 USD/tấn).

Chào giá tới Singapore từ các nhà máy Trung Quốc là khoảng 345-350 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 343-348 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.