Định giá phôi thanh CIS
Platts tăng giá xuất khẩu phôi thanh CIS thêm 3 USD/tấn, đạt mức 393 USD/tấn trong ngày thứ ba.
Giá chào các lô hàng tháng 6 ở mức 400-410 USD/tấn FOB Biển đen. Một thương nhân cho biết có một lô hàng 15.000 tấn xuất tới Ai Cập với giá 396 USD/tấn FOB Biển Đen. Tuy nhiên, thông tin này chưa được phía nhà máy Nga xác nhận.
Một thương nhân khác cho biết thị trường không chấp nhận giá cao hơn 390 USD/tấn FOB và giá chào mua vẫn lảng vảng quanh mốc 385 USD/tấn FOB Biển Đen. Tuy nhiên, thị trường sẽ sớm chấp nhận giá mới.
Một thương nhân khác cho biết các khách hàng Ai Cập sẵn sàng trả giá 410 USD/tấn CFR Damietta, gần mốc 390 USD/tấn FOB.
Một nhà máy Nga cho biết giá chào 400 USD/tấn FOB vẫn chưa được chấp nhận. Nhà máy này phủ nhận tin đồn về việc đã bán lô hàng phôi thanh tới một nhà máy cán lại Thổ Nhĩ Kỳ ở mức giá 400 USD/tấn FOB Biển Đen và cho rằng vẫn có thể chốt được giá 390 USD/tấn FOB.
Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ im ắng, các nhà máy chuyển hướng vào nội địa
Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong tuần này mặc dù tình hình trong nước diễn biến rất tốt. Giá thép cây nội địa tiếp tục tăng trưởng còn thị trường xuất khẩu thì u ám.
Các khách hàng Mỹ vẫn xa lánh thị trường sau tuyên bố điều tra về hàng nhập khẩu theo Mục 232 của chính quyền Mỹ. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ lo ngại rằng Mục 232 sẽ chấm dứt giao dịch với Mỹ trong khi thị trường Trung Đông cũng im ắng do lễ Ramadan.
Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ im ắng với chỉ một chào giá 500-505 USD/tấn CIF tới Bờ Đông Mỹ. Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho biết đang tập trung vào thị trường trong nước vì giá tăng trưởng tốt. Một nhà máy khác cũng có động thái tương tự. Giá trong nước tăng nhờ vào đồng Lira tăng giá, gần chạm mức 480 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, giá chào xuất khẩu ở mức 430-435 USD/tấn FOB nhưng không có giao dịch. Một nhà máy lớn cho rằng giá chào trên thị trường xuất khẩu chỉ ở mức 410-420 USD/tấn FOB Marmara trọng lượng thực tế. Một thương nhân cho biết hầu hết các nhà máy đã nhận đủ đơn hàng xuất khẩu và đang tập trung vào giao hàng.
Platts duy trì giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ theo ngày tại mức 415.5 USD/tấn FOB (412-419 USD/tấn).
Giá thép dây Châu Á tăng nhanh nhờ lực hỗ trợ từ thị trường Trung Quốc
Giá giao ngay của thép dây trên thị trường Châu Á tăng mạnh vào ngày hôm qua nhờ sự tăng trưởng tốt tại thị trường nội địa Trung Quốc. Platts tăng định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm thêm 20.5 USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 431 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tại thị trường Thượng Hải, giá giao ngay thép dây Q195 6.5mm ở mức 3.370-3.380 NDT/tấn (489-490 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế VAT, tăng 95 NDT/tấn so với tuần trước. Giá tăng nhờ các nhà máy nâng giá xuất xưởng cũng như ảnh hưởng tốt từ giá phôi thanh Đường Sơn .
Các nhà máy Trung Quốc đã mạnh tay tăng giá xuất khẩu theo giá nội địa, với chào giá thép dây Q195 6.5mm ở mức 435-443 USD/tấn FOB, so với mức 415-425 USD/tấn FOB tuần trước. Trong khi đó, vài thương nhân ngưng chào bán trong ngày thứ tư do triển vọng thị trường không chắc chắn. Phần lớn người mua do dự đặt hàng trong bối cảnh giá biến động, minh chứng là sự tăng quá nhanh và quá nhiều trong chỉ 2 tuần qua. Thị trường trở nên im ắng vào tuần này sau khi các thành viên trở lại làm việc sau lễ lao động.
Giá chào tới Philippines ở mức 450-455 USD/tấn CFR Manila (436-441 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 14 USD/tấn) trong ngày thứ ba nhưng không thu hút người mua. Trong khi đó, có thông tin về một giá chào khác ở mức 430 USD/tấn CFR Manila nhưng không có thêm thông tin chi tiết nào.
Các khách hàng Việt Nam dự thầu ở mức 430-431 USD/tấn FOB với phí vận chuyển là 9 USD/tấn về thành phố Hồ Chí Minh. Các nhà máy Trung Quốc đã tăng giá quá nhanh với 200 NDT/tấn trong vòng 2 tuần, khiến người mua cảnh giác về nguy cơ rủi ro giá sẽ giảm lại.
Giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong khi HRC bình ổn
Thị trường các mặt hàng tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra theo xu hướng trái chiều nhau vào tuần này. Giá xuất khẩu và nội địa của mặt hàng HDG giảm do sức mua trong nước thấp trong khi thị trường xuất khẩu chịu cạnh tranh gay gắt, còn giá chào bán HRC bình ổn nhờ giá nguyên liệu thô tăng đều.
Các nhà máy thép mạ phải vật lộn tìm kiếm đơn hàng mới trong những tuần gần đây sau khi đã nhận được các đơn đặt hàng lớn từ Châu Âu trong Q1. Do nhu cầu tiêu thụ trong nước chậm chạp dù có vài tín hiệu tăng trưởng nên các nhà máy quyết định giảm giá chào bán ở cả trong và ngoài nước.
Trong khi đó, các nhà máy HRC chào bán thép tháng 6 ở mức 520-525 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần trước nhưng vẫn kèm chiết khấu cho các lô hàng lớn. Giá chào xuất khẩu giảm 10-20 USD/tấn tùy từng đơn hàng.
Trong khi đó, giá chào HRC từ các nhà máy CIS chỉ ở mức thấp 455-465 USD/tấn CFR trong mấy ngày gần đây và vài nhà máy thép ống đã đặt mua ở mức này.
Chính sách phi tiền tệ hóa tiếp tục kìm hãm nhu cầu tiêu thụ HRC Ấn Độ
Các thương nhân và nhà máy sản xuất HRC Ấn Độ cho biết, giá HRC vẫn ổn định trong tuần do hệ quả lâu dài từ chiến dịch phi tiền tệ hóa của Chính quyền Ông Modi được công bố vào tháng 11 năm ngoái. Platts giữ nguyên mức giá hàng tháng của HRC IS 2062 dày 3mm sản xuất ở Mumbai tại mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (553-569 USD/tấn) đã tính phí. Nếu trừ 5% thuế VAT và 12.5% thuế tiêu thụ đặc biệt thì sẽ còn lại 41.934-43.115 Rupees/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ HRC từ các ngành sản xuất thép xây dựng như thép tấm mạ kẽm và thép ống có lỗ vẫn trì trệ sau khi Chính quyền Trung ương bất ngờ thông báo loại bỏ các đồng tiền mệnh giá lớn. Chiến dịch phi tiền tệ hóa được chính quyền New Delhi công bố vào ngày 5/11 năm ngoái, mục đích khuyến khích các công dân chuyển sang phương thức thanh toán không tiền mặt. Tuy nhiên, các giao dịch bất động sản sụt giảm do thường thanh toán bằng tiền mặt đã khiến nhiều nhà thầu rút đầu tư khỏi các dự án xây dựng mới. Các nhà thầu và các nhà phát triển vốn thường giao dịch bằng tiền mặt nên khi có chính sách này họ không còn đầu tư thêm nữa.
Thanh toán không tiền mặt cũng ảnh hưởng tới việc mua các mặt hàng tiêu thụ lâu bền như xe hơi, vốn chỉ giao dịch bằng tiền mặt. Người mua hoãn lại các giao dịch lớn do lo ngại bị cơ quan thuế dòm ngó vì họ dễ dàng theo dõi các giao dịch tiền mặt thông qua ngân hàng hay các bảng kê khai thanh toán.
Trong khi đó, các thương nhân cố gắng giảm hàng tồn ở mức tối đa để tránh rủi ro, nên họ cũng thu mua ở mức tối thiểu.
Giá phế Mỹ tăng vào tuần thu mua đầu tháng 5
Giá phế Mỹ tăng ở vài giao dịch trong tuần thu mua đầu tháng 5. Các nhà cung cấp phế thu thêm được 5-10 USD/tấn đối với phế cắt và phế vụn ở Pittsburg và Ohio.
Một nhà cung phế ở Detroit tăng giá chào bán phế chất lượng cao thêm 10 USD/tấn vào hôm qua nhưng vẫn giữ giá các loại phế khác trong khi người mua tại hầu hết các khu vực đều từ chối trả thêm.
Các giao dịch phế tháng 5 vẫn ở giai đoạn đầu đàm phán nhưng một nhà xuất khẩu bờ Đông đã chốt được một đơn hàng lớn tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 275 USD/tấn CFR cho phế HMS 80:20, tăng 6 USD/tấn so với thứ năm tuần trước. Điều này thu hút được nhiều nhà buôn phế trở lại thị trường.
Giá chào tăng 10 USD/tấn ở Detroit cho thấy nỗ lực thu hẹp khoảng cách giá với khu vực lân cận Cleveland, nơi có giá phế chất lượng cao đạt tới 390 USD/tấn trong tháng 4. Giá chào phế cấu trúc và tấm, phế vụn đều ổn định. Platts tăng giá phế vụn hàng ngày thêm 5 USD/tấn, lên mức 300-310 USD/tấn giao tới Midwest trong ngày thứ tư.
Các nhà máy thép phản ứng dữ dội với quyết định tăng giá phế do muốn bù lại phần nào giá bán HRC giảm. Nguồn cung sẵn có cho các đơn hàng trong nước tại bờ vịnh không nhiều như trong tháng 4, gây áp lực cho các nhà máy thép khi muốn giữ giá mua phế.
Một nhà cung cấp phế tại Northeast vẫn chưa bán được lô hàng tháng 5 nào cho biết, rất dễ dàng để bán phế tại mức giá cũ. Thị trường Ohio thuận lợi hơn những thị trường khác và có thể tăng giá nhưng các nhà máy thép hiện tại vẫn cố gắng đàm phán giá cũ.
Thị trường Southeast chậm phát triển hơn nhưng tâm lý thị trường không mạnh như ở Midwest và Northeast. Một nhà máy cho biết đã mua được phế vụn với giá không đổi trong ngày hôm qua. Ở Texas, một nhà máy chào mua phế với giá không đổi nhưng vẫn đặt hàng vì bị từ chối.
Giá HRC Châu Á duy trì đà tăng nhưng người mua vẫn còn nhiều lo ngại
Các nhà máy Trung Quốc tiếp tục tăng giá chào bán HRC xuất khẩu trong ngày hôm qua dù không thu hút người mua. Platts tăng giá HRC SS400 dày 3mm lên mức 423-428 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 3.50 USD/tấn so với thứ ba.
Một nhà máy lớn ở Đông Bắc Trung Quốc tăng giá chào bán xuất khẩu thêm 10 USD/tấn, lên mức 440 USD/tấn FOB Trung Quốc. Một nhà máy khác ở phía Đông cũng tăng giá chào lên mức 440 USD/tấn FOB. Trong khi đó, các nhà máy khác giữ nguyên giá chào ở mức 425-440 USD/tấn FOB dù chưa nhận được đơn hàng nào.
Một thương nhân cho biết, người mua không phản ứng là chuyện rất bình thường vì xu hướng tăng chưa rõ ràng. Họ cần thời gian để theo dõi giá. Trong khi đó, lễ quốc gia ở Hàn Quốc đã đẩy người mua ra khỏi thị trường còn các khách hàng Việt Nam mới chỉ trở lại sau lễ và không thể theo kịp giá mới.
Một khách hàng Pakistan vẫn giữ im lặng và không dự thầu giá chào 455 USD/tấn CFR Pakistan (phí vận tải 20 USD/tấn) từ Trung Quốc. Người mua vẫn nghĩ rằng giá thép Trung Quốc sẽ giảm lại trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, theo như Platts khảo sát thì các nguồn tin cho rằng các nhà máy Trung Quốc sẽ không giảm giá vào tháng này vì chi phí đầu vào cao và giá bán nội địa tăng. Người mua rồi sẽ trở lại nếu không ai chịu giảm giá.
Đối với thép cuộn SAE,các nhà máy chào ở mức 440-450 USD/tân FOB Trung Quốc. Chênh lệch giá HRC SAE1006 dày 2mm với HRC SS400 là 7.50 USD/tấn.
Giá HRC Thượng Hải bắt đầu suy yếu vì thiếu đơn hàng
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải giảm vào hôm qua do thiếu nhu cầu tiêu thụ và giao dịch hạn chế. Hầu hết cho rằng giá sẽ giảm nữa trong những tuần tới do sức mua từ hạ nguồn giảm lại sau tháng 5. Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống còn 3.130-3.150 NDT/tấn (454-457 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17%VAT, giảm 40 NDT/tấn so với thứ ba. Tại sàn giao dịch kỳ hạn, hợp đồng giao tháng 10 chốt giảm 30 NDT/tấn, còn 3.112 NDT/tấn.
Giá HRC Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn vào chiều hôm qua, khiến nhiều người lo lắng hai đơn đặt hàng vào buổi sáng của một nhà máy sẽ bị người mua hủy. Ngoài ra, các nguồn tin cũng lo lắng về tình hình tiêu thụ tháng này sẽ suy yếu đi trong khi nguồn cung vẫn chưa có dấu hiệu giảm rõ.
Hesteel tăng giá thép cây
Hesteel Group, nhà máy thép xây dựng lớn ở phía Bắc đã quyết định tăng giá xuất xưởng thép cây thêm 300 NDT/tấn (43 USD/tấn) trong giai đoạn 10 ngày đầu tháng 5, đẩy giá thép đường kính 18-25mm lên 3.570 NDT/tấn (517 USD/tấn).
Giá mới áp dụng cho thép cây sản xuất tại các phân xưởng Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel and Chengde Iron & Steel của Hesteel Group bán ra ở Bắc Kinh và Thiên Tân, tính theo giá xuất xưởng trọng lượng lý thuyết đã tính thuế VAT.
Giá của Hesteel tương đương mức 3.680 NDT/tấn trọng lượng thực tế.
Thị trường thép cây Châu Á ổn định do người bán giữ giá
Thị trường thép cây xuất khẩu Châu Á ổn định vào hôm qua do người bán kiên quyết giữ giá và từ chối đàm phán. Platts tăng giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm thêm 0.5 USD/tấn so với thứ ba, đạt mức 414-416 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Tại Singapore, giá chào từ Trung Quốc cho lô hàng giao tháng 6 ở mức 430-440 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. Giá có thể giao dịch ở khoảng 420-435 USD/tấn CFR, tương đương mức 417-432 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính 16 USD/tấn đã tính phí vận chuyển và 3% chênh lệch khối lượng. Giá chào từ một thương nhân được nghe ở mức 435 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 6.
Giá dự thầu cao nhất từ người mua là 400 USD/tấn CFR, tăng 20 USD/tấn nhưng vẫn thấp hơn giá chào bán. Giao dịch gần đây sụt giảm do các khách hàng Singapore đã có đủ hàng dự trữ phục vụ cho sản xuất 5-6 tháng.
Giá chào thấp nhất từ một nhà máy phía Đông ở mức 420 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, nhưng khả năng đàm phán không nhiều. Các nhà máy khác đều chào ở mức 425-460 USD/tấn FOB.
Thị trường Hong Kong vẫn im ắng do đang nghỉ lễ.
Định giá HRC EU
Platts vẫn giữ giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 539-541 Euro/tấn (588.32-590.50 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày hôm qua.
Thị trường vẫn im ắng và các nhà máy từ chối đàm phán giá, tập trung vào các hợp đồng cho nửa cuối năm. Cả bên mua và bán đều đồng tình giá xuất xưởng hiện tại là 540 Euro/tấn. Tuy nhiên, sự xuất hiện của giá chào Trung Quốc lại khiến người mua lo ngại lần nữa vì nhìn chung nó có xu hướng giảm.
Một khách hàng ở Benelux cho biết giá chào nhập khẩu vẫn ở mức 490-495 Euro/tấn. Một khách hàng Đức đồng tình với giá này và cho biết hai nước chiếm giữ thị trường nhập khẩu chính là Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ. Hàn Quốc vẫn vắng mặt trong tuần này do nghỉ lễ.
Các nhà máy Ý chào bán ở mức 510 Euro/tấn xuất xưởng.
Giá thép cây và thép dây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá chào bán thép cây và thép dây trong nước nhờ tiêu thụ tăng trưởng tốt và nguồn cung hạn chế ở vài khu vực. Ngoài ra, giá phế tăng cũng hỗ trợ giá thép dài.
Nhà máy Icdas tại Marmara mở cửa nhận đơn hàng vào hôm qua với giá chào cao hơn. Giá niêm yết thép cây đường kính 12-32mm tăng 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn) lên mức 1.930 TRY/tấn xuất xưởng đối với xưởng Istanbul và 1.910 TRY/tấn tại xưởng Biga, Canakkale. Các mức giá này đã tính 18% thuế VAT, tương đương mức 463 USD/tấn và 485 USD/tấn chưa tính VAT.
Icdas cũng tăng giá thép cây đường kính 10mm lên 30 TRY/tấn, đạt mức 1.940 TRY/tấn xuất xưởng trong khi thép cây 8mm tăng lên mức 1.950 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Giá niêm yết thép dây 7-8/5mm cũng tăng lên 2.090-2.120 TRY/tấn xuất xưởng đã tính thuế.
Vài nhà máy khác cũng tăng giá niêm yết thép tính theo đồng Lira mặc dù đồng Lira tăng giá, trong khi các nhà máy như Bastug Metalurji đã đóng cửa trở lại vào sáng hôm qua chỉ sau một ngày mở cửa bán hôm thứ ba. Công ty này dự tính bán lại vào những ngày tới khi giá cao hơn.
Các nhà môi giới cũng tăng giá chào thép cây trong nước, hưởng ứng theo các nhà máy. Giá chào thép cây 12-32mm ở khu vực Marmara tăng lên mức 1.960-1.980 TRY/tấn đã tính thuế trong khi giá tại Iskenderun tăng lên mức 1.920-1.940 TRY/tấn.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts vẫn giữ nguyên giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 415.50 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ tư.
Giá xuất khẩu thép cây vẫn không đổi do tình hình giao dịch chậm hơn thường lệ. Các nhà nhập khẩu Mỹ đã ngưng đặt hàng nhưng các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chào ở mức 500-505 USD/tấn CIF Bờ Đông.
Trong khi đó, giá chào tới các nước khác là 430-440 USD/tấn FOB nhưng không có giao dịch. Hai nhà máy cho hay họ thích bán vào nội địa hơn vì giá trong nước tăng.
Giá HRC Mỹ suy yếu nhưng triển vọng trước mắt ổn định
Giá HRC Mỹ tiếp tục suy yếu vào hôm qua vì thiếu giao dịch và người mua vẫn còn nhiều hàng dự trữ.
Trong tuần qua, mức giá 600 USD/tấn vẫn có sẵn trên thị trường, ít nhất là từ hai nhà máy trong nước và từ Canada. Platts giảm giá HRC xuống còn 610-640 USD/tấn trong khi CRC vẫn ổn định ở mức 810-840 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một trung tâm dịch vụ cho hay đã đặt mua một đơn hàng HRC khối lượng nhỏ tại mức giá 630 USD/tấn. Ông cũng nhận được chào giá HDG là 810 USD/tấn. Hầu hết các nhà máy gần đây không chào bán CRC và HDG quá mức 830 USD/tấn.
Trong bối cảnh hàng nhập khẩu tràn tới và tồn kho trong nước cao thì người mua không cần phải đặt hàng nữa. Điều tra nhập khẩu theo mục 232 của Chính Quyền Mỹ khiến các thương nhân lo lắng vì không biết liệu họ có thể bán được theo giá thỏa thuận hay không. Các giao dịch thép tấm mỏng và dày đều bị hoãn lại vì lo ngại thuế quan.
Một trung tâm dịch vụ cho hay đã nhận được chào giá HRC là 630 USD/tấn xuất xưởng nhưng ông không mua tại mức giá này. Hàng nhập khẩu đang đóng tại Bờ Đông và ông dự tính sẽ mua các lô hàng giao vào tháng 6.
Thời gian làm hàng của HRC mở rộng, có khi tới tháng 7 đối với vài nhà máy. Một trung tâm dịch vụ đồng tình rằng mặc dù giá đang giảm song thị trường vẫn thắt chặt. Các nhà máy phía Nam đang vận hành hết công suất nhưng các nhà máy phía Bắc có công suất thấp hơn. Ông dự báo những tháng tới sẽ rất thú vị vì giá có thể giảm nhẹ một thời gian rồi nhanh chóng tăng trở lại.
Một trung tâm dịch vụ khác cho biết giá chào HRC ở phía Nam là 600 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá mua phế trong nước
Vài nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế tàu giao dịch bằng đồng dolla cũng như phế DKP giao dịch bằng đồng Lira trong ngày hôm qua, do giá nhập khẩu phế tăng mấy ngày gần đây.
Vài nhà máy thép dài như Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan ở Phía tây đã tăng giá mua phế nung chảy từ xác tàu lên mức 270-276 USD/tấn, tăng 5-11 USD/tấn so với tuần trước.
Giá mua phế DKP bằng đồng Lira cũng tăng ở vài nhà máy trong khi đồng Lira vẫn duy trì đà tăng so với dolla kể từ đầu tuần qua.
Nhà máy tích hợp Eregli của Tập đoàn Erdemir tăng giá mua phế DKP thêm 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn), đạt mức 1.010 TRY/tấn (285 USD/tấn) trong ngày 3/ 5 trong khi nhà máy Iskenderun tăng tới 60 TRY/tấn (17 USD/tấn), đạt mức 960 TRY/tấn (272 USD/tấn).
Nhà máy thép hợp kim Asil Celik ở Bursa mua phế DKP tại mức 970 TRY/tấn (274 USD/tấn) trong khi nhà máy Colakoglu mua cùng loại phế với giá 910 TRY/tấn (258 USD/tấn).
Giá mua phế của Kardemir đạt mức 1.010 TRY/tấn (285 USD/tấn) trong ngày hôm qua.
HRC tiếp tục đà suy yếu, ngoại trừ khu vực Bắc Âu : TSI
Theo giá tham khảo từ TSI đối với HRC cho thấy, giá mặt hàng này giảm tại hầu hết các thị trường trong tuần cuối tháng 4, ngoại trừ Bắc Âu ghi nhận mức tăng nhẹ 2 Euro/tấn, ở mức 546 Euro/tấn xuất xưởng. Thời gian giao hàng trung bình tăng từ 6.5 tuần lên 7.5 tuần.
HRC ở Nam u giảm 11 Euro/tấn, mở rộng chênh lệch với phía Bắc lên 50 Euro/tấn. Giá CRC giảm tại tất cả các khu vực Châu âu nhưng HDG tăng 4 Euro/tấn ở phía Bắc trong khi sụt giảm 25 Euro/tấn tại phía Nam với thời gian giao hàng lên 11 tuần.
Giá tấm dày tại Nam Âu ổn định nhưng giảm 6 Euro/tấn tại phía Bắc. Giá thép cây tăng 10 Euro/tấn lên 418 Euro/tấn xuất xưởng ở Nam u nhưng giảm 7 Euro/tấn ở phía Bắc. Thời gian giao hàng thép cây tại các khu vực đều tăng.
Tại Mỹ, giá thép tấm dày có bước tăng vượt bậc với 10 USD/tấn trong tuần, đạt mức 736 USD/tấn FOB Midwest, mức cao nhất 12 tháng. Thời gian giao hàng thép tấm dày tăng từ 8.1 tuần lên 9.1 tuần. Giá các mặt hàng khác đều giảm với HRC giảm 9 USD/tấn trong tuần qua, CRC giảm 14 USD/tấn và HDG giảm 7 USD/tấn.
Tại thị trường nhập khẩu Châu Á, HRC giảm 5 USD/tấn về mức 427 USD/tấn CFR cảng ASEAN, giảm hơn 11% trong vòng 4 tuần qua. CRC tăng 1 USD/tấn trong khi thép tấm dày giảm 8 USD/tấn còn 449 USD/tấn CFR cảng ASEAN.