Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 05/10/2015

Khách hàng thép dây Mỹ chờ đợi giá giảm

Đà giảm giá phế Mỹ tiếp tục gây áp lực cho giá thép dây trong tuần qua khiến người mua trì hoãn đơn hàng. Platts giảm giá thép dây dạng lưới xuống còn 500-520 USD/tấn xuất xưởng từ mức 500-530 USD/tấn trước đó. Giá thu mua phế giữa tháng 9 giảm 20-30 USD/tấn và dự báo sẽ giảm 50-60 USD/tấn cho tới đàm phán tháng 10.

Một khách hàng thép dây Nam Mỹ đã bắt đầu đàm phán với các nhà máy nội địa về giá tháng tới. Người mua tin rằng các nhà máy sẽ giảm giá thép dây ít cacbon xuống cùng mức do giá phế giảm. Một khách hàng thép dây Nam Mỹ đã đặt mua thép dây chất lượng công nghiệp tại mức 505 USD/tấn xuất xưởng. Ông sẽ chờ tới giữa tháng này để đặt mua thép tháng 11.

Trong ngày thứ sáu, giá thép dây IQ giao ngay đạt mức 515-530 USD/tấn xuất xưởng nhưng dự báo giá tháng 10 là 495-500 USD/tấn.

Giao dịch phôi phiến CIS chậm chạp do thị trường bế tắc

Người mua phôi phiến CIS đang chờ đợi tới khi hội nghị IERPAS kết thúc vào tuần tới để bắt đầu đặt mua hàng do chênh lệch giá chào bán và chào mua lúc này quá lớn.

Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ đang chào mua với giá 255-265 USD/tấn CFR còn các nhà máy đặt mục tiêu giá bán là 270-275 USD/tấn CFR.

Sahaviriya Steel Industries Anh đã rút khỏi thị trường phôi phiến. Nhà máy này thường bán 1 triệu tấn phôi phiến/năm. Tuy nhiên, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ  chịu áp lực từ giá HRC suy yếu hơn là sự vắng mặt của SSI. Hiện tại, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có thể bảo toàn đơn hàng xuất khẩu HRC tại mức 310-315 USD/tấn FOB. Để đáp ứng nhu cầu, họ ó thể mua phôi phiến với giá tối đa 260 USD/tấn CFR.

Đơn hàng phôi phiến mới nhất từ CIS tới Mỹ đạt mức 265 USD/tấn CFR, tương đương 252 USD/tấn FOB. Các nhà máy CIS không chấp nhận bán giá 250 USD/tấn FOB nhưng cùng thời điểm, không ai chịu mua với giá 260 USD/tấn.

Từ ngày 25/9 đến đầu tháng 10, giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ giảm gần 5 USD/tấn xuống còn 188 USD/tấn CFR. Platts vẫn giữ giá phôi phiến CIS không đổi tại mức 252-258 USD/tấn FOB Biển Đen.

 Định giá phôi thanh CIS

Platts đã giảm giá phôi thanh CIS xuống 3 USD/tấn còn 275 USD/tấn FOB Biển Đen dựa trên giá chào thấp từ các nhà máy Ukraina.

Các nhà máy Ukraina giữ giá chào bình ổn tại mức 275 USD/tấn FOB Biển Đen tới Bắc Phi. Trong khi đó, giá dự thầu từ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thấp hơn nên các nhà máy cũng bắt đầu thảo luận chiết khấu cho giá chào chính thức 280-285 USD/tấn FOB Biển Đen. Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ cho hay giá trên mức 270 USD/tấn FOB Biển Đen sẽ không được nước này chấp nhận.

Tình hình thị trường vẫn im ắng do Trung Quốc nghỉ lễ và mọi người đang hướng tới hội nghị IREPAS tại Rome vào tuần tới.

Giá HRC Nga bình ổn so với tháng trước

Hầu hết các nhà máy HRC Nga đều giữ giá HRC không đổi trong tháng 10. Chỉ vài nhà máy tăng giá nên giá trung bình tháng 10 chỉ tăng nhẹ.

Giá tấm cán nóng hiện có sẵn ở mức 28.320-29.100 Rub/tấn (427-440 USD/tấn) cho loại 2mm và 27.610-28.500 Rub/tấn (417-439 USD/tấn) cho loại 4mm đã tính phí giao hàng tới Maxcova và thuế VAT 18%. Các mức giá này cao hơn giá giao dịch trung bình tháng 9 tầm 340 Rub/tấn (5 USD/tấn).

Platts tăng giá thép tấm và cuộn cán nóng dày 2-4mm thêm 375 Rub/tấn (6 USD/tấn) so với tuần trước đó lên 23.780-24.320 Rub/tấn (358-367 USD/tấn) và 23.180-23.720 Rub/tấn (350-357 USD/tấn) CPT Maxcova.

Trong khi đó, nếu tính giá thép theo đồng dolla thì giá chỉ tăng 1.5 USD/tấn dựa vào sự giảm nhẹ của đồng Rub và do đó, chênh lệch giá xuất khẩu HRC CPT Maxcova và FOB Biển Đen vẫn ở mức 50-55 USD/tấn, bình ổn so với tuần trước đó.

So với giá tấm cán nguội tháng 10, các nhà máy đã nâng giá thép thêm vài phần trăm lên mức 29.100-29.320 Rub/tấn (439-442 USD/tấn) CPT Maxcova cho loại 1mm chưa tính thuế VAT.

Chênh lệch giá thép cuộn Bắc và Nam Âu mở rộng

Trong bối cảnh xu hướng giá thép cuộn toàn cầu suy yếu, chênh lệch giá thép cuộn Bắc và Nam Âu tăng mạnh trong mấy tháng gần đây trước sự sản xuất trở lại của nhà máy Ilva Ý và áp lực tăng từ hàng nhập khẩu.

Cuối tháng 9 năm 2014, chênh lệch giá HRC và CRC Bắc và Nam Âu hầu như không đổi. Một năm sau đó, chênh lệch giá đã vượt mức 30 Euro/tấn cho HRC và 50 Euro/tấn cho CRC.

Trong suốt năm 2015, giá HRC và CRC Nam Âu đã rẻ hơn 10-30 Euro/tấn so với Bắc Âu, và gần như tăng gấp đôi so với tháng 7 năm trước do nhà máy Ilva Ý đã tăng sản xuất tại Taranto.

Mặc dù xu hướng giá tiêu cực song các nhà môi giới Nam Âu vẫn suy nghĩ tích cực do khối lượng giao dịch kể từ đầu năm đã tăng.  Platts định giá HRC và CRC Nam Âu hàng tuần tại mức 318 Euro/tấn và 395 Euro/tấn xuất xưởng. 

Cạnh tranh gay gắt gây áp lực cho giá xuất khẩu HRC/CRC Thổ Nhĩ Kỳ

Sự cạnh tranh gay gắt từ CIS và Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ cộng với áp lực tiêu thụ thấp đang là gánh nặng cho thị trường thép cuộn nước này.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào bán HRC tại mức thấp 335-345 USD/tấn FOB kèm chiết khấu 5-10 USD/tấn có sẵn cho các đơn hàng lớn trong khi giá chào CRC xuất khẩu đạt mức 435-445 USD/tấn FOB.

Mặc dù cắt giảm giá xuống 30 USD/tấn song tiêu thụ thép Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trầm lắng. Trong khi đó, giá chào từ CIS đạt mức 290-310 USD/tấn FOB và CRC là 365-385 USD/tấn FOB. Gía chào từ Trung Quốc vẫn thấp hơn CIS 10 USD/tấn với thời gian giao hàng kéo dài.

Các khó khăn tài chính và hàng nhập khẩu giá rẻ vẫn gây áp lực cho giá chào bán nội địa. Gía HRC đạt mức 345-355 USD/tấn xuất xưởng còn CRC là 445-455 USD/tấn xuất xưởng.

Theo dự báo thì nhu cầu tiêu thụ chưa thể phục hồi trong thời hạn ngắn, ít nhất cho tới lễ bầu cử ngày 1/11 do các bất ổn tiếp tục ảnh hưởng tới tính năng động của nền kinh tế.

Giá quặng sắt tiếp tục suy yếu trong tuần qua 

Giá quặng sắt giao ngay suy yếu thêm nữa trong tuần trước khi mối quan ngại ngày càng tăng về khả năng cắt giảm sản lượng tại các nhà máy Trung Quốc sau lễ gây sức ép lên giá có thể giao dịch.

Tại Platts, 62% Fe IODEX được định giá thấp hơn 4 USD/dmt so với tuần trước còn 54,65 USD/tấn CFR. Giá tham khảo của The Steel Index cho quặng cám 62% Fe giảm 2,2 USD/dmt còn 54 USD/dmt CFR Thiên Tân.

Tâm lý rất bi quan vào đầu tuần trước, sau khi bán tháo hàng loạt trên thị trường hàng hóa và phôi thanh ở Đường Sơn đã bốc hơi 60 NDT/tấn vào cuối tuần, điều này đã khiến giá xuống mốc thấp lịch sử 1.640 NDT/tấn (257,34 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Hai.

Một vài nguồn tin cho biết các nhà máy đã giảm bớt công suất hoạt động trước lễ và đang cân nhắc cắt giảm sản lượng hơn nữa nếu giá thép không lấy lại mức sàn trước đó.

Trung Quốc đã chính thức bước vào tuần nghỉ lễ từ thứ Năm nhưng tất cả các hoạt động thị trường đã biến mất vào ngày thứ sáu, mặc dù hầu hết các nguồn tin mà Platts khảo sát đều cho rằng triển vọng thị trường thép vẫn còn u ám. 

Giá phế giảm tại Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Á

Thị trường nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ trầm lắng trong tuần này sau khi các nhà máy đã đặt mua phế cách đây nửa tháng. Giá phế dự báo giảm hơn nữa trong mấy ngày tới xuống mức sàn 180 USD/tấn CFR. Sự kiện Irepas tại Rome có thể đẩy giao dịch vào đầu tuần tới.

Giá phế cũng suy yếu tại Đông Á trong tuần qua. Mỹ vẫn chào bán khối lượng lớn nhưng không có giao dịch nào diễn ra. Các nhà máy EAF tại Malaysia và Thái Lan gần đây đã nhận được giá chào bán các lô hàng lớn tại mức 190-195 USD/tấn CFR so với mức 200 USD/tấn tháng trước.

Trong suốt giữa tuần, một nhà máy Hàn Quốc vẫn mua được phế khối lượng lớn Mỹ tại mức 175 USD/tấn CFR HMS I. Tuy nhiên, một nhà máy từ chối mua phế vì hàng tồn kho rất cao. Platts giảm giá phế HMS khối lượng lớn Đông Á tại mức 185-190 USD/tấn CFR từ mức 195-200 USD/tấn CFR Đông Á tuần trước đó.

Nhà máy mini lớn Nhật Bản, Tokyo Steel Manufacturing, đã quyết định cắt giảm giá mua phế xuống 500-1.000 Yên/tấn kể từ ngày 03/10. Các thương nhân không nghĩ rằng việc cắt giảm này sẽ ảnh hưởng tới thị trường nhiều do giá mua của Tokyo Steel Manufacturing nhích hơn giá các nhà máy khác. Gía mua phế H2 của nhà máy Tokyo Steel tại các xưởng ở Utsunomiya bắc Kanto đạt mức 16.500 Yên/tấn (138 USD/tấn) sau khi cắt giảm.

Các thương nhân Nhật Bản đang thu mua phế H2 để xuất khẩu tại mức giá 16.000-16.500 Yên/tấn FAS tại vịnh Tokyo, không đổi so với tuần trước đó. Các khách hàng Việt Nam và Đài Loan vẫn không trở lại thị trường.

Các nhà máy Hàn Quốc vẫn chưa trở lại thị trường do họ muốn đứng ngoài quan sát hơn. Hynundai Steel đã mua 20.000 tấn phế Nhật vào ngày 15/9 gồm phế Shindachi với giá 19.000 Yên/tấn FOB và phế H2 với giá 16.000 Yên/tấn FOB, cùng giảm 3.000 Yên/tấn so với cách đó 4 tuần.

Dongkuk Steel Mill cũng đã đặt mua 10.000 tấn phế Nhật tại mức 25/9 với giá 16.000 Yên/tấn FOB. 

Posco sẽ giảm giá mua tất cả các loại phế xuống 5.000 Won/tấn (4 USD/tấn) tại Pohang từ ngày 5/10 và 10.000 Won/tấn tại Gwangyang từ ngày 6/10.  

Hàn Quốc: Posco duy trì giá thép cuộn không gỉ cho tháng 10 

Posco thông báo hôm thứ Sáu về việc giữ giá HRC và CRC không gỉ austenite ở trong nước cho tháng 10. Nhà sản xuất thép dẹt không gỉ lớn nhất Hàn Quốc này đã duy trì giá thép cuộn không gỉ từ tháng 7cho tới nay.

Theo Poso thì tuy giá nguyên liệu, trong đó có niken, đã giảm từ một tháng trước đó nhưng nhìn chung sự ảnh hưởng đến chi phí đầu vào là rất nhỏ.

Tuy nhiên, do xu hướng thị trường thép không gỉ ở cả trong và ngoài nước vẫn còn bất ổn vì đồng Won suy yếu so với đôla Mỹ nên công ty đã quyết định sẽ duy trì giá hàng tháng để giảm thiểu bất kỳ sự tác động tiêu cực nào đến khách hàng.

Giá niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.0390 USD/tấn hôm 01/10. Nhưng kể từ khi Niken rớt xuống dưới 10.000 USD/tấn trong suốt tháng 9 thì mức giá trung bình của tháng 9 đã giảm còn 9.895,45 USD/tấn, thấp hơn 443 USD/tấn từ mốc 10.338,75 USD/tấn của tháng 8.

Posco không thông báo chính thức giá bán hàng tháng của mình cho thép cuộn không gỉ nhưng theo tính toán của Platts thì giá cơ bản của nhà máy cho HRC loại 304 vẫn giữ ở mức 3,7 triệu Won/tấn (3.140 USD/tấn). Giá CRC 304 là 3,97 triệu Won/tấn. Giá bán thực tế khác nhau giữa các khách hàng tùy vào điều kiện và điều khoản.

Tồn kho CRC không gỉ tại các nhà máy thép trong đó có Posco hồi cuối tháng 8 tăng 0,5% so với tháng trước đó và 10% so với năm ngoái lên 99.000 tấn, theo số liệu từ Hiệp hội sắt thép Hàn Quốc. Kosa cho rằng nguyên nhân là do việc kinh doanh thép cuộn không gỉ tới các nhà sản xuất đồ gia dụng, thép ống và những ngành công nghiệp khác tiếp tục trì trệ. 

Giá thép dầm hình H ở Nhật Bản suy yếu do người mua vin vào cớ giá phế thấp hơn 

Giá thép dầm hình H ở Nhật đã bắt đầu sụt giảm một lần nữa, vì các khách hàng đề nghị các nhà máy giảm giá bán nếu như chi phí phế đầu vào rẻ hơn.

Giá trên thị trường của thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo hiện nay là 73.000-74.000 Yên/tấn (608-616 USD/tấn), giảm 2.000 Yên/tấn so với tuần trước đó. Giá tại Osaka khoảng 71.000-72.000 Yên/tấn, thấp hơn so với mức 72.000 Yên/tấn trước đó.

Một nhà phân phối ở Tokyo cho biết lần sụt giảm này có lẽ đã bị tác động bởi động thái giảm giá niêm yết tháng 10 của Tokyo Steel Manufacturing. Nhưng ông và hầu hết những đối tác của mình hiểu nhà máy mini này chỉ đang điều chỉnh giá bán của mình tới mức thị trường chứ không thực sự giảm giá. Giá được cho là đã chạm đáy và thị trường đang chuẩn bị tăng trở lại.

Tokyo Steel đã giảm 7.000 Yên/tấn từ giá niêm yết thép dầm hình H của mình cho những hợp đồng tháng 10, kéo giá xuống 70.000 Yên/tấn. “Giá của Tokyo Steel và giá trên thị trường cân bằng nhưng nhiều khách hàng chỉ nhìn thấy động thái giảm giá bởi  Tokyo Steel và họ khăng khăng đòi chúng tôi giảm xuống mức giống vậy. Một số nhà phân phối đã bắt đầu chấp nhận điều này bởi vì họ cần phải đảm bảo doanh số”.

Một nhà phân phối khác ở Tokyo cho biết bất cứ sự tăng giá phế nào cũng có thể sẽ giúp ngăn giá thép xói mòn thêm, nhưng sẽ không cho phép bất kỳ lần tăng nào. “Bởi vì nhu cầu thép xây dựng không cải thiện rõ ràng nên chúng tôi chỉ có thể kiên nhẫn và cố gắng giữ giá ở mức hiện tại. Chắc chắn người mua sẽ không chấp nhận mức giá cao hơn cho đến khi phế bắt đầu tăng trở lại”.

Các đơn hàng đặt mua thép dầm hình H trong tháng 7 đạt 325.000 tấn, giảm 6,3% so với tháng 6 và 7,6% so với năm ngoái, theo số liệu mới nhất từ Liên đoàn sắt thép Nhật Bản. 

Giá thép thanh thương phẩm Mỹ giảm sau khi các nhà máy hạ giá

Giá giao dịch thép thanh thương phẩm Mỹ giảm trong tuần qua theo thông báo hạ giá của các nhà máy nội địa bất chấp nỗ lực cắt giảm chiết khấu. Platts giảm giá thép thanh thương phẩm xuống còn 628-658 USD/tấn xuất xưởng trong tháng 10 từ mức 668-678 USD/tấn tháng 9.

Nucor, Commercial Metals Co., Steel Dynamics Inc. và Gerdau Long Steel North America đã giảm giá thép thanh thương phẩm xuống 30 USD/tấn trong tháng 9. Các nhà máy nội địa khác cũng giảm giá xuống 25 USD/tấn trong đầu tháng 8.

Một trung tâm dịch vụ Nam Mỹ cho biết đã nhận được chiết khấu 60 USD/tấn trước khi giá giảm trong tháng 9. Hiện tại, các nhà máy đã cắt giảm chiết khấu xuống còn 40 USD/tấn.

Người mua không ngạc nhiên nếu các nhà máy giảm giá xuống nữa trước cuối năm và với xu hướng giá bất ổn hiện tại, các nhà nhập khẩu trong nước cũng không quan tâm đến thép nhập khẩu. 

Thị trường phôi thanh nhập khẩu Đông Nam Á trầm lắng do Trung Quốc nghỉ lễ 

Thị trường phôi thanh nhập khẩu ở Đông Nam Á im ắng trong tuần trước giữa bối cảnh Trung Quốc đang nghỉ lễ từ đầu tháng 10. Các nhà nhập khẩu phôi thanh nhìn chung muốn đợi cho đến sau lễ trước khi bước vào thị trường, trong khi nhiều nhà cung cấp Trung Quốc cũng rút lui.

Một nhà máy hàng đầu của Việt Nam trong tuần trước đã đặt mua hai lô phôi vuông 150mm, mỗi lô 10.000 tấn từ Trung Quốc có giá thấp hơn 10 USD/tấn so với chào giá cuối tháng 9. Một lô phôi thanh Q235 150mm có giá 265 USD/tấn CFR TP.HCM và một lô khác Q255 150mm có giá 267 USD/tấn CFR.

Tại Jakarta, một giao dịch phôi thanh Q235 130mm từ Trung Quốc nghe nói được chốt với giá 285 USD/tấn CFR. Nhưng một số người tin rằng mức giá này quá cao để có thể lặp lại. Một thương nhân Singapore có thể được chốt với giá 280  USD/tấn CFR vì vậy ông không chắc chắn liệu 285 USD/tấn CFR  có chính xác hay không.

Một nhà cán lại ở Jakarta cho biết ông không nghe nói có bất cứ sự chấp nhận chào giá nào gần đây với mức 290 USD/tấn CFR, và nghĩ rằng giao dịch có thể  đạt được vào tuần trước khi giá khá hơn.

Một lô phôi thanh Q255 150mm của Trung Quốc nghe nói cũng được đặt mua với giá 270-275 USD/tấn CFR ở Thái Lan trong tuần trước. Chênh lệch giữa phôi thanh 120/130mm và phôi 150mm thường là 10 USD/tấn.

Chào giá Trung Quốc cho phôi thanh loại Q275 120/130mm và Q235 đang phổ biến ở mức lần lượt là 285 USD/tấn CFR và 280 USD/tấn CFR. Tình trạng tắc nghẽn ở cảng Manila đã đẩy chi phí vận chuyển lên khoảng 10 USD/tấn so với những cảng đến khác ở quanh khu vực này.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá phôi thanh 120/130mm Đông Á trong khoảng 275-285 USD/tấn CFR, giảm từ mức 280-285 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 280 USD/tấn thấp hơn 2,5 USD/tấn so với tuần trước.