Thị trường phế Mỹ mở đầu tuần giao dịch với phế chất lượng cao tăng 20 USD/tấn
Một nhà máy ở Detroit đã thu mua phế tháng 12 vào chiều qua với giá chào mua tăng 20 USD/tấn cho phế chất lượng cao và 30 USD/tấn cho phế cũ. Tuy nhiên, chưa rõ liệu nhà máy này có thành công hay không.
Một nhà cung cấp phế cho rằng người bán đang chờ đợi và nghe ngóng. Platts định giá phế vụn tại mức 300.25 USD/tấn trong tuần.
Các nhà máy khác đang theo dõi quá trình thu mua của nhà máy trên và dự báo sẽ bắt đầu ra giá chào vào hôm nay. Họ đang nỗ lực mua phế vụn ở mức tăng 30 USD/tấn và phế chất lượng cao thêm 20 USD/tấn.
Các nhà máy Ohio cho biết mức giá 315-330 USD/tấn sẽ là giá giao dịch phế vụn tháng 12. Giá mua hồi tháng 11 là 285 USD/tấn.
Giá phế chất lượng cao vẫn chưa rõ.
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu tuần tăng mới
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng trở lại vào hôm qua do vài nhà máy và các nhà môi giới tăng giá chào dựa vào chi phí đầu vào tăng mặc dù đồng Lira có nhích nhẹ trở lại.
Đồng Lira giao dịch ở mức 3.90-3.91 Lira/USD vào thứ hai so với mức 3.93-3.94 Lira/USD cuối tuần trước.
Một nhà máy thép dài lớn là Izmir Demir Celik (IDC) tăng giá thép cây thêm 50 Lira/tấn (12.80 USD/tấn) vào chiều hôm qua, đẩy giá thép cây 12-32mm lên 2.570 TRY/tấn xuất xưởng. giá cho thép cây 10mm tăng lên 2.585 TRY/tấn xuất xưởng còn loại 8mm tăng lên 2.600 TRY/tấn xuất xưởng có thuế.
Nguồn cung vài loại thép cây thiếu hụt vẫn yếu tố trợ giá tăng. Vài nhà máy đã ngưng nhận đơn hàng trong khi số khác nhận đơn hàng giao tháng 1.
Trong khi đó, vài nhà môi giới tăng giá chào trong nước trong bối cảnh thiếu nguồn cung. Giá chào cho thép cây 12-32mm ở Marmara là 2.680 TRY/tấn có thuế trong khi giá các khu vực khác là 2.600-2.670 TRY/tấn.
Các nhà máy thép tròn đặc Trung Quốc tăng giá thêm 53 USD/tấn
Giá giao ngay ống đúc Trung Quốc tiếp tục tăng vào hôm qua theo sự khởi sắc của thị trường thép nội địa Trung Quốc và giá nguyên liệu đầu vào tăng. Các nhà máy thép tròn đặc lớn ở phía đông đã công bố dự định tăng giá niêm yết thêm 300-350 NDT/tấn (45-53 USD/tấn) cho các đơn hàng từ ngày 1-10/12 hồi thứ sáu tuần trước.
Theo đó, giá cho thép tròn đặc 20# 50-130mm do các nhà máy Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel sản xuất tăng thêm 350 NDT/tấn lên 5.050 NDT/tấn (763 USD/tấn) và 5.000 NDT/tấn (756 USD/tấn) cho các đơn hàng đầu tháng 12, giá xuất xưởng có thuế.
Một nhà máy thép tròn đặc lớn là Huaigang Special Steel cũng thông báo sẽ tăng giá xuất xưởng cho mặt hàng này thêm 300 NDT/tấn lên 5.050 NDT/tấn có thuế. Đây là lần tăng giá thứ ba liên tiếp của nhà máy này với tổng mức tăng 580-650 USD/tấn.
Giá chào cho ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) tại Thượng Hải tăng 50 NDT/tấn so với 10 ngày trước đó lên 5.450 NDT/tấn xuất xưởng có thuế.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tăng
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tăng ngày thứ tư liên tiếp tính tới hôm thứ hai. Hầu hết người bán ngưng chào giá dựa vào sự tăng mạnh của giá trong nước.
Platts tăng giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm Trung Quốc xuất khẩu thêm 5 USD/tấn lên 546 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Một nhà máy phía đông chào giá 620 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết (639 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) cho thép cây 10-40mm giao tháng 1, tăng 20 USD/tấn so với thứ tư tuần trước. Số khác ngưng chào bán trong khi một nhà máy ở đông bắc sẵn sàng chào 630 USD/tấn và sau đó rút lại giá chào.
Một nhà môi giới Hồng Kông nhận được giá chào 600 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 1 từ Nga, tương đương 594.5 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển 13 USD/tấn. Tuy nhiên, ông chọn cách chờ đợi chứ không đặt hàng.
Một nhà môi giới khác nghĩ rằng đà tăng này chỉ ngắn hạn nên chọn cách chờ đợi do đã mua hàng gần đây. Một thương nhân Singapore cũng nghĩ rằng người mua sẽ chờ đợi.
Một nhà chế tạo thép cho rằng giá dường như đi đúng hướng nhưng mức cao như vậy sẽ không bền vững. Giá sẽ hạ nhiệt một khi nguồn cung ổn định.
Trong khi đó, giá thép cây nội địa rất mạnh trong bối cảnh sức mua cải thiện. Tại phía bắc, giá thép cây tăng 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) trong khi giá xuất xưởng phía đông tăng 130 NDT/tấn.
Tồn kho thép dẹt Nhật Bản giảm trong tháng 10
Tồn kho thép tấm dày, HRC và CRC nhập khẩu tại các cảng Tokyo và Osaka Nhật Bản giảm 3.000 tấn (2.2%) vào cuối tháng 10 so với cuối tháng 9 xuống còn 137.000 tấn. Tồn kho tháng 10 giảm 14.000 tấn hoặc 10.25 so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhiều đơn hàng nhập khẩu được đặt hồi tháng 7 đã được giao vào tháng 9 nhưng một số bị hoãn cho tới tháng 10. Đơn hàng từ các khách hàng Nhật tới các nhà cung cấp ngoài nước tăng và họ chấp nhận nhiều hơn khả năng cung cấp nên việc giao hàng bị trì hoãn. Tuy nhiên, các nhà máy này đã bắt đầu hạn chế lượng thép xuất khẩu để ưu tiên bán vào nội địa nên hàng nhập khẩu dự báo sẽ tiếp tục giảm.
Quan chức Hanwa cho biết các nhà máy chính như Posco Hàn Quốc và CSC Đài Loan phải sản xuất bù lại sự thiếu hụt nguồn cung nội địa do Trung Quốc giảm xuất khẩu. Giá nội địa các nước này cao hơn giá xuất khẩu tới Nhật nên họ không quan tâm tới xuất khẩu lắm.
Giá HRC Hàn Quốc là 750.000 Won/tấn (690 USD/tấn) trong khi giá giao tới Nhật Bản là 72.000 Yên/tấn (634 USD/tấn) CIF.
Một thương nhân ở Osaka cho biết, các nhà máy tích hợp Nhật đang gặp áp lực trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của khách hàng. Họ phải trả giá cao hơn cho các hãng tàu địa phương để đảm bảo việc giao hàng. Cùng với đó, các hãng vận tải đường bộ cũng bận rộn hơn do các nhà máy tích hợp đang tìm kiếm xe tải có sẵn trong khi các hãng xe tải đang thiếu nguồn lái xe chuyên nghiệp.
Điều này cũng tác động tới quá trình giao thép từ cảng tới khách hàng. Việc đặt giao hàng bằng xe tải gặp khó khăn hơn nên quá trình giao hàng từ cảng bị chậm.
Nhật Bản nhập khẩu 115.692 tấn HRC trong tháng 10, giảm 11.7% so với cùng kỳ năm ngoái và 5.8% so với tháng trước 9 trong khi CRC nhập khẩu giảm 3.6% so với cùng kỳ năm ngoái và 7.3% so với tháng 9 xuống 71.920 tấn. Nhập khẩu tấm dày trong tháng 10 đạt 54.517 tấn, giảm mạnh 20.8% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 16% so với tháng 9, theo Liên bang thép Nhật cho biết.
Các khách hàng nội địa kháng cự nỗ lực tăng giá HRC của các nhà máy Ấn Độ
Người mua kháng cự lại các nỗ lực tăng giá HRC thêm 500 Rupees/tấn (8 USD/tấn) của các nhà máy tích hợp lớn Ấn Độ.
Platts tăng giá HRC IS 2062 2.0mm Mumbai thêm 250 Rupees/tấn lên 37.500-38.500 Rupees/tấn (582-598 USD/tấn), tương đương 40.162-41.233 Rupees/tấn đã tính 2% thuế trung ương và 5% VAT.
Các nhà máy Ấn Độ muốn tăng giá theo xu hướng chung của thế giới. Họ đã tăng giá xuất khẩu nên cũng muốn tăng giá trong nước.
Tuy nhiên, người mua không chấp nhận do tiêu thụ cuối suy yếu.
Trong khi đó,nguồn cung HRC dường như bị hạn chế vào tháng này do một nhà máy lớn đã sửa chữa lò đúc phôi phiến được 3 tuần nay. Điều này dường như sẽ làm giảm khả năng đàm phán giá xuống của người mua.
Giá HRC Thượng Hải tăng
Giá giao ngay HRC tại Thượng Hải đang ngày càng tăng mạnh hơn trong xu hướng khởi sắc chung của thị trường thép Trung Quốc.
So với thứ sáu tuần trước, giá HRC Q235 5.5mm đã tăng 100 NDT/tấn lên 4.330-4.350 NDT/tấn (654-657 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 5 chốt tăng 85 NDT/tấn lên 4.074 NDT/tấn.
Tâm lý thị trường lạc quan. Các nhà tiêu thụ cuối thận trọng sau khi giá tăng gần đây. Tuy nhiên, theo một thương nhân dự báo người mua sẽ chấp nhận giá hiện tại vào tuần này.
Giá tấm mỏng Mỹ tăng vào đầu tuần
Giá HDG Mỹ tăng vào hôm qua do các nhà máy cố gắng theo đuổi mục tiêu giá bán và phụ phí kẽm cao hơn.
Platts tăng giá HDG 16-gauge phủ 90g kẽm/m2 thêm 10.75 USD/tấn lên 870 USD/tấn.
Một nhà máy đang bán hơn 300 tấn ở mức 899 USD/tấn trong khi nhà máy khác cho biết đã chốt giao dịch ở mức 840 USD/tấn.
Trong khi vài nhà máy cho biết giá chào HDG đã tăng sau khi các nhà máy thông báo tăng giá thêm 30 USD/tấn đầu tháng 11 thì số khác cho rằng giá không thay đổi nhiều. Nhiều nhà máy tăng phụ phí kẽm với Steel Dynamics Inc. là nhà máy tăng gần đây nhất.
Thời gian giao hàng của HDG vẫn thấp vào lúc này, chỉ tầm 6 tuần rưỡi. Một nhà máy báo cáo thời gian giao HDG của công ty tầm 8 tuần.
Giá HDG vẫn đang chịu áp lực, một trung tâm dịch vụ cho biết.
Giá HRC và CRC cũng tăng vào ngày hôm qua. Platts tăng giá HRC thêm 8 USD/tấn lên 624.75 USD/tấn. Mức giá xuất xưởng tầm 630-638 USD/tấn tuần trước.
Phần lớn các nhà máy tăng giá HRC thêm 640 USD/tấn nhưng giá thấp hơn có sẵn nếu người mua cố gắng đàm phán.
Trong khi đó, Platts tăng giá CRC thêm 2.25 USD/tấn lên 799 USD/tấn. Các nhà máy báo c áo giao dịch từ tuần trước ở mức 798-835 USD/tấn.
Người mua dự báo các thảo luận mua phế sẽ là vấn đề được quan tâm nhất tuần này, với giá cả dự báo tăng. Nếu phế tăng và sức mua trên thị trường tấm mỏng cũng tăng thì các nhà máy sẽ tiếp tục tăng giá trước cuối tháng, các nguồn tin dự báo.
Giá trong nước tăng thúc đẩy giá xuất khẩu HRC Trung Quốc
Giá HRC Trung Quốc tăng mạnh vào hôm qua thúc đẩy các nhà máy tăng giá chào xuất khẩu, tuy nhiên người mua vẫn xa lánh để chờ đợi giá rõ ràng hơn.
Platts tăng giá HRC SS400 3.0mm Trung Quốc thêm 6 USD/tấn lên 552-554 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá tính theo CFR Đông Á là 562-564 USD/tấn CFR Đông Á.
Thông tin thị trường liền kề với HRC nội địa Trung Quốc được xem xét để định giá HRC xuất khẩu dựa vào sự tăng mạnh giá chào từ Trung Quốc.
Giá HRC Q235 5.5mm giao ngay tại Thượng Hải cũng tăng mạnh 100 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước lên 4.330-4.350 NDT/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy lớn vẫn từ chối chào bán HRC SS400 xuất khẩu vào hôm qua do họ cần xem chiến lược các nhà máy khác. Vào chiều thứ hai, một nhà máy lớn ở miền đông Trung Quốc chào bán thép cuộn ở mức 605 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 1, cao hơn tuần trước 35 USD/tấn. Giá nội địa cao nên các nhà máy xuất khẩu cũng phải thay đổi giá chào, một nguồn tin cho biết.
Nhiều nhà máy khác tăng giá chào thép cuộn thương phẩm thêm 30-40 USD/tấn lên 615-630 USD/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, không có giao dịch.
Một giao dịch 20.000 tấn và một nhà máy Nga được nghe đã chốt ở mức 548-549 USD/tân CFR Việt Nam giao thang 2.
Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy phía đông chào bán tăng 15 USD/tấn lên 585-590 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 2 (phí vận chuyển 10 USD/tấn). Giá chào từ Ấn Độ tầm 562-570 USD/tấn CFR Việt Nam, rẻ hơn thép Trung Quốc.
Một giao dịch 15.000 tấn được nghe tuần qua từ một nhà máy Ấn Độ ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam giao đầu tháng 1. Một lô hàng 3.000 tấn từ cùng nhà máy nghe bán ở cùng mức giao tháng 1.
Chênh lệch giá thép cuộn SAE với HRC SS400 là 7 USD/tấn.