Tokyo Steel giảm giá mua phế
Tokyo Steel Manufacturing giảm giá mua phế ferrite xuống 500-1.000 Yên/tấn (4,9-9,8 USD/tấn) cho tất cả các loại phế tại 4 trong số 5 xưởng và nhà kho của nhà máy này, áp dựng từ thứ ba. Mức giảm lớn nhất 1.000 Yên/tấn là cho tất cả các loại phế tại xưởng Utsunomiya thuộc phía nam Kanto, ngoại trừ phế HS là chỉ giảm 500 Yên/tấn và phế H2 giao tới Utsunomiya có mức giá mới là 33.000 Yên/tấn (324,8 USD/tấn). Chỉ có giá mua tại xưởng ở Kyushu là không đổi.
Các thương nhân ở Tokyo không hề ngạc nhiên trước hành động giảm giá mua vì việc vận chuyển phế tới các nhà máy nhìn chung đã trở lại bình thường sau trận bão tuyết. Các nhà máy khác như Kanto Steel ở Ibaraki, phía bắc Tokyo, đã bắt chước người đi đầu Tokyo Steel cũng giảm giá mua ở mức tương tự 500 Yên/tấn hôm thứ Ba.
Nguồn cung phế đã tăng ở khu vực Kanto sau quyết định của các nhà sản xuất thép thanh dẹt Daisan Steel là sẽ ngưng hoạt động từ cuối tháng 02. Những đại lý trước đây bán phế cho các xưởng của Daisan ở ngoại ô Tokyo đã bắt đầu giao tới các nhà máy khác, làm nguồn cung trong khu vực dồi dào hơn.
Một yếu tố khác khiến cho thị trường phế suy yếu hơn ở Kanto là nhà máy Funabashi của Godo Steel tại Chiba, phía đông Tokyo, sẽ giảm sản lượng trong tháng này còn khoảng 20.000 tấn so với mức trung bình hàng tháng lên đến 50.000 tấn. Tuyết rơi dày đã bao phủ khắp miền đông nước này trong hai tuần trước làm hoạt động vận tải bằng đường bộ bị gián đoạn nghiêm trọng khiến cho các xe chở thép của Godo bị trì hoãn, dẫn đến lượng hàng tồn khô tăng cao tại các xưởng sản xuất.
Nguồn cung phế tại khu vực Kanto hiện nay tiếp tục dồi dào nên dự đoán giá sẽ còn giảm thêm nữa.
Tang Eng duy trì giá thép không gỉ, tăng sản lượng
Tang Eng Iron Works vẫn duy trì giá bán tháng 03 ở trong nước đối với HRC và CRC không gỉ do chi phí sản xuất không đổi. Công ty cũng tăng sản lượng lên để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn.
Theo quyết định này, giá niêm yết giao trong nước của Tang Eng cho HRC loại 304 dày 2mm và CRC 2mm 2B lần lượt tại 76.000 Đài tệ/tấn (2.504 USD/tấn) và 80.000 Đài tệ/tấn. Còn giá xuất khẩu thì không được tiết lộ.
“Sức mua trong tháng 02 cải thiện hơn so với tháng 01. Doanh số của chúng tôi có lẽ sẽ trên 17.000 tấn trong tháng 02”, đại diện nhà máy nói. Dự báo nhu cầu tiêu thụ sẽ còn mạnh hơn trong tháng này, ước tính khối lượng bán ra của Tang Eng trong tháng 03 sẽ đạt 20.000 tấn.
Sản lượng thép thô của nhà máy này hiện nay cán mốc 20.000 tấn mỗi tháng sau khi nhu cầu gia tăng. Con số này cao hơn so với mức 17.000 tấn trong tháng 01. Nhà sản xuất thép này có công suất khoảng 28.000-30.000 tấn/tháng tại các xưởng ở Kaohsiung, miền nam Đài Loan.
Tuy nhiên, công ty lại báo cáo với sàn giao dịch chứng khoán Đài Loan trong tuần trước là bị thua lỗ 951 triệu Đài tệ trong năm 2013, đây là năm thứ hai liên tiếp nhà máy này báo lỗ. Tang Eng cho biết năm ngoái họ phải đối mặt với những khó khăn trong việc điều hành cũng như tình trạng “thắt nút cổ chai” do sự cạnh tranh khốc liệt vì sản lượng thép không gỉ tăng vọt tại Trung Quốc, nền kinh tế toàn cầu trì trệ, giá niken giảm cùng với đó là thép không gỉ từ Trung Quốc và Hàn Quốc tràn ngập vào thị trường nội địa.
Nhưng doanh số của nhà máy đã cải thiện sau khi Đài Loan đưa ra thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm thép cán nguội không gỉ xuất xứ Trung Quốc và Hàn Quốc được áp dụng hồi tháng 08 năm ngoái.
Thị trường thép thanh thương phẩm Mỹ rẽ theo một lối riêng
Giá thép thanh thương phẩm Mỹ tăng trong tháng 2 mặc dù các nhà máy vẫn đang đối mặt với nhiều áp lực kìm hãm giá.
Ba nhà máy Nucor, Steel Dynamics và Gerdau Long Steel North America đã thông báo tăng giá thêm 20 USD/tấn ngắn mà họ thử nghiệm từ tháng trước đó. Trong khi giá tháng 2 tăng, nhiều thành viên thị trường cho rằng với giá phế cũng như giá thép ống và các mặt hàng cán dẹt giảm thì các nhà máy này có thể sẽ không tăng giá thành công.
Giá phế vụn Platts đã giảm còn 385-390 USD/tấn dài Midwest trong ngày 4/3, mất 17.5 USD/tấn so với ngày trước.
Một người mua Midwest cho rằng giá thép thanh thương phẩm đang rẽ theo hướng khác so với tình hình chung của thị trường. Một nhà phân phối thép thanh khác cũng đồng tình với quan điểm này mặc dù ông cho biết mức chiết khấu 20 USD/tấn trên giá niêm yết thép thanh thương phẩm vẫn có sẵn. Gía niêm yết thép hình 2x2x1/4-inch hiện đạt mức 813 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, giá cũng đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ chào bán thép thanh thương phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ.
Một người khác cho biết, giá thép thanh có tăng, nhưng khoảng cách giữa giá niêm yết và giá giao dịch cũng như giữa hàng nội địa và giá chào bán từ Mexico vẫn không đổi.
Platts tăng giá thép thanh thương phẩm tháng 3 lên mức 783-793 USD/tấn.
Đà phục hồi thép cây miền bắc Trung Quốc bị chững lại
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc đã ngừng tăng trong ngày thứ ba vừa qua, sau khi có một ngày phục hồi ngắn ngủi với mức tăng 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) hôm thứ sáu tuần trước. Một số thương nhân thậm chí còn giảm giá nhẹ để bán được hàng vì sức mua đã chững lại khi giá lên cao hơn.
Nhưng số khác thì vẫn tỏ ra lưỡng lự để cắt giảm giá, vì mức giá hiện tại vẫn đang dao động thấp hơn nhiều so với giá xuất xưởng từ các nhà máy mặc dù gần đây đã có sự phục hồi. Một thương nhân ở Bắc Kinh suy diễn rằng những người muốn duy trì ở mức giá hiện tại có thể là vì họ có lượng hàng tồn ít hơn so với những người đang cố bán cho bằng được.
Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) chốt tại 3.230-3.250 NDT/tấn (526-529 USD/tấn), giảm 10 NDT/tấn so với thứ hai. Giá trên đã có VAT 17% và tính theo trọng lượng thực tế.
Một thương nhân nói với Platts rằng công ty ông đã hạ chào giá xuống 10 NDT/tấn sau khi thị trường mở cửa, bởi vì họ dự đoán mức giá cao hơn hôm thứ Hai không thể thu hút đủ sức mua. Nhưng công ty lại tăng chào giá trở lại sau khi đã bán được khoảng 1.000 tấn.
Giá thép cây có vẻ đã gần chạm đáy vì lực mua đầu cơ tăng khi trước đây giá giảm còn khoảng 3.110 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết (tương đương 3.206 NDT/tấn trọng lượng thực tế). Nhưng đồng thời, ông dự báo sẽ không có bất kỳ sự cải thiện đáng kể nào trong tháng 03, trừ phi Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) khoá 12 đưa ra những tin tức có lợi cho thị trường thép.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE giảm 0,5% trong ngày thứ ba chốt tại 3.409 NDT/tấn, sau khi tăng 0,41% hôm thứ Hai.
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á im ắng mặc dù giá phế đang lên
Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á vẫn còn trì trệ. Hầu như không có sự chuyển biến gì trong hai tuần qua, thêm vào đó những đơn đặt hàng gần đây là để tái bổ sung hàng trong kho nhưng hầu hết các nhà cán lại vẫn giữ thái độ chờ đợi và nghe ngóng.
Nghe nói một số thương nhân đang mua từ các nhà máy trong khu vực. Một lô phôi thanh ước chừng 60.000-70.000 tấn của Đài Loan được đặt mua trong tuần trước với giá 505-510 USD/tấn FOB. Nhiều chào giá phôi thanh Đài Loan đã được nâng lên 520 USD/tấn FOB trong tuần này. Giá phôi thanh tăng do giá phế và thép cây lên cao hơn tại Đài Loan.
Hơn 100.000 tấn phôi thanh Đài Loan được đặt mua bởi các nhà máy ở Indonesia và Thái Lan với giá khoảng 500 USD/tấn FOB trong tuần kết thúc ngày 21/02. Chào giá hiện nay tại Indonesia là 520 USD/tấn CFR cho phôi thanh Trung Quốc và 530 USD/tấn CFR cho phôi thanh Biển Đen.
Tuần trước, một vài giao dịch phôi thanh sản xuất bằng lò hồ quang điện từ Trung Quốc có khối lượng 5.000 tấn được bán tới Philippines với giá 524 USD/tấn CFR và 515 USD/tấn CFR cho phôi thanh sản xuất bằng lò cảm ứng.
Các đơn đặt hàng với giá cao hơn cũng được nghe nói, do giá phôi thanh tiêu chuẩn hàng hóa đang phổ biến quanh 520-530 USD/tấn CFR Đông Nam Á. Một nhà máy Hàn Quốc đã bán 20.000 tấn phôi thanh tới một thương nhân với giá 518 USD/tấn FOB trong tuần kết thúc ngày 21/02, và nghe nói đã được bán lại với giá 536 USD/tấn CFR Philippines.
Tuần trước, nghe nói một nhà máy Malaysia đã bán được hơn 30.000 tấn phôi thanh với giá 540 USD/tấn CFR Indonesia. Nhiều thương nhân nhận xét rằng hợp đồng này có lẽ là phôi thanh chất lượng cao hơn do những giao dịch phôi thanh nhập khẩu trước đó tới Indonesia chỉ đạt 530 USD/tấn CFR.
CRC Trung Quốc rớt giá ở cả trong nước và xuất khẩu
Xu hướng đi xuống của CRC Trung Quốc tiếp tục diễn ra trong những ngày đầu tháng 03 do hàng tồn tăng trong khi giá HRC nội địa lại giảm. Do bị ảnh hưởng bởi sự suy yếu của thị trường trong nước cộng thêm với sự mất giá của đồng Nhân dân tệ nên các đơn đặt hàng từ nước ngoài cũng chậm lại, vì thế giá xuất khẩu CRC cũng rớt giá theo.
Hôm thứ Ba, CRC SPCC 1.0mm có giá 4.080-4.180 NDT/tấn (664-680 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 4.040-4.100 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), giảm lần lượt 25 NDT/tấn và 45 NDT/tấn so với thứ ba tuần trước.
Theo nhà cung cấp thông tin Mysteel, CRC tồn kho tại 23 thành phố lớn trong nước còn tổng cộng 1,66 triệu tấn hôm 28/02, cao hơn 108.300 tấn so với ngày 24/01.
Một số thương nhân cho biết sự phục hồi của sức mua quá chậm chạp để có thể hỗ trợ cho giá. Nhiều thương nhân cũng đã và đang phải đối mặt với tình trạng tín dụng thắt chặt và hầu hết đều ưu tiên giảm bớt hàng tích trữ. Chính điều này càng làm tăng thêm sức ép lên giá.
Về phía thị trường xuất khẩu, một số nhà máy đã đồng ý giao dịch CRC SPCC 1.0mm quanh mức giá 610-617 USD/tấn FOB, giảm so với 615-620 USD/tấn FOB của tuần trước. Một số thương nhân cho biết một vài đơn đặt hàng đã được chốt ở mức giá mới nhưng giao dịch vẫn còn chậm.
Một thương nhân nói rằng nhu cầu ở nước ngoài đã dần hồi phục nhưng vẫn cần sức mua mạnh hơn nữa thì mới thực sự hỗ trợ được cho giá đứng ở mức hiện tại. Một nhà xuất khẩu khác cho hay các nhà máy đã giảm giá, một phần là vì số lượng đặt mua rất thấp, một phần vì đồng nội tệ mất giá dẫn đến họ phải cắt giảm bớt từ 3-5 USD/tấn. Ông cho biết giá xuất khẩu có khả năng sẽ giảm thêm nữa nếu giá trong nước cứ tiếp tục lao dốc như hiện nay hay đồng nội tệ không lấy lại được giá trị.
Tuy nhiên, một thương nhân khẳng định rằng có một nhà máy ở miền bắc vẫn kiên quyết giữ giá chào bán tại 620-625 USD/tấn FOB vì họ đã đạt được hạn ngạch xuất khẩu CRC tháng 04 nên không vội bán ra.