Định giá phôi thanh CIS
Plats vẫn duy trì giá phôi thanh CIS tại mức 393 USD/tấn, không đổi so với hôm thứ tư.
Một nhà máy Nga tăng chào giá lên 405 USD/tấn FOB Novorossiysk. Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ nhận được chào giá từ Ukraina ở mức 400 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá chào khác đến từ một nhà máy mini của Ukraina là 390 USD/tấn FOB Biển Azov.
Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ sẵn sàng đặt mua tại mức 400 USD/tấn CIF Marmara giao ngay. Một nhà cán lại cho hay đã nhận được chào giá từ các thương nhân ở mức 405 USD/tấn CFR, tương đương mức 390-395 USD/tấn FOB tùy vào phí vận tải.
Platts vẫn duy trì giá phôi thanh tại mức 393 USD/tấn, điểm giữa của giá giao dịch 390-396 USD/tấn FOB Biển Đen gần đây.
Giá HRC Châu Á sụt giảm trở lại sau 2 tuần tăng
Sự suy yếu của giá HRC giao kỳ hạn cộng với giá giao ngay nội địa Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều nhà máy cắt giảm giá chào xuất khẩu. Platts giảm định giá HRC SS400 dày 3mm xuống 1.50 USD/tấn, còn 423-425 USD/tấn, đánh dấu lần giảm lại đầu tiên kể từ ngày 20/4.
Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm đạt mức 2.970-2.990 NDT/tấn (431-434 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT trong ngày thứ năm, giảm 160 NDT/tấn so với ngày trước đó. Tại sàn giao dịch kỳ hạn SHFE cùng ngày, hợp đồng tháng 10 chốt ở mức 2.891 NDT/tấn, giảm 221 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy lớn ở Đông Bắc Trung Quốc đang sẵn sàng bán HRC SS400 tại mức giá 425 USD/tấn FOB Trung Quốc do nhận thấy sự giảm nhanh của giá trong nước cộng với tình hình thu mua khan hiếm. Nhà máy này đã không bán lô hàng nào tại mức giá này trong tuần. Trong khi đó, một nhà máy khác cũng sẵn sàng nhận đơn hàng ở mức 425 USD/tấn CFR mặc dù giá chào của nó cao hơn.
Một thương nhân cho biết, khó mà nhận được đơn hàng ngay cả ở mức 425 USD/tấn FOB. Ông đã nhận được chào mua từ Việt Nam chỉ ở mức 418 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC SS400. Vài nhà xuất khẩu cắt giảm giá chào xuống 10 USD/tấn, còn 445 USD/tấn CFR Pakistan (phí vận chuyển 20 USD/tấn), nhưng không thu hút người mua vì họ không chắc xu hướng giá sắp tới.
Đối với thép cuộn SAE, các khách hàng Việt Nam chỉ dự thầu ở mức 420-430 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi Trung Quốc chào giá 450 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá chào phôi thanh CIS vượt mức 400 USD/tấn
Giá xuất khẩu phôi thanh CIS tiếp tục tăng trong ngày hôm qua do các nhà máy tăng giá chào lên trên 400 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một thương nhân Châu Âu cho biết, giá chào thấp nhất từ Nga là 400 USD/tấn FOB. Có một thương nhân nhận được chào giá 405 USD/tấn FOB Novorossiysk thanh toán trước 10%. Đây là mục tiêu giá cao nhất trên thị trường hiện tại. Trong khi đó, giá chào thấp hơn đến từ một nhà máy Ukraina, chỉ 390 USD/tấn FOB Biển Azov thanh toán trước một phần. Người mua dự thầu tại mức giá 385 USD/tấn FOB Biển Azov.
Một nhà máy Nga cho rằng có thể bán được giá 390 USD/tấn FOB, nhưng vẫn đặt mục tiêu là 400 USD/tấn FOB. Một thương nhân cho hay đã đặt mua lô hàng 15.000 tấn tại mức giá 396 USD/tấn FOB cho thị trường Ai Cập. Điều này cho thấy giao dịch tuần này ở mức cao. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người tìm kiếm giá thấp hơn. Thị trường Ai Cập sẵn sàng trả mức 410 USD/tấn CIF cho phôi thanh CIS, cỡ 390 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong khi đó, một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ nhận được chào giá là 405 USD/tấn CIF. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ từ nước này thấp do ảnh hưởng lễ Ramadan. Một nhà máy khác cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không trả quá 400 USD/tấn CIF dù giá phế tăng lại đần đây. Mức giá tối đa họ trả là 390 USD/tấn.
Platts duy trì định giá hàng ngày của phôi thanh CIS tại mức 393 USD/tấn FOB Biển Đen.
Thị trường tấm mỏng Mỹ bình ổn nhưng khách hàng tìm kiếm giá thấp hơn
Thị trường HRC Mỹ ổn định trong ngày thứ năm, song người mua lại đang tìm kiếm giá thấp hơn. Một nhà máy cho rằng giá giao dịch trên thị trường hiện tại là 620-640 USD/tấn với các giao dịch nhỏ hơn đạt trên mức 640 USD/tấn. Trong tuần qua, giá HRC có sẵn từ ít nhất hai nhà máy nội địa và Canada là 600 USD/tấn. Tuy nhiên, chưa nghe giao dịch nào chốt ở mức giá này.
Giá chào phổ biến cho HRC là 630 USD/tấn nhưng giá người mua đưa ra thấp hơn 30 USD/tấn, và họ đang cố gắng để mua được giá này.
Một khách hàng cho hay không tham gia vào thị trường giao ngay tuần này nhưng thấy giao dịch HRC tháng 6 đã giảm 15-25 USD/tấn so với giao dịch tháng 5. Một người khác đang chờ cho giá HRC các lô hàng nhỏ giảm rồi mới đặt hàng.
Trong khi đó, giá CRC vẫn dao động trong biên độ rộng, tùy thuộc vào khu vực nhưng áp lực lớn nhất là giá ở Bờ Đông. Giá chào cho CRC Bờ Đông là 820 USD/tấn nhưng tiến sâu vào trong nội địa, giá có thể tới 860 USD/tấn.
Các nguồn tin cho rằng giá tấm mỏng sẽ không giảm nhiều trong ngắn hạn do thời gian làm hàng tăng sẽ hỗ trợ giá. Ngoài ra, nhiều nhà máy còn đang dự tính bảo dưỡng phân xưởng tháng này. Chẳng hạn như US Steel có kế hoạch bảo trì tới 25 ngày trong tháng 5 còn nhà máy Cleveland của ArcelorMittal bảo trì vào cuối tháng 5.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 610-640 USD/tấn và 810-840 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Giá HRC Trung Quốc giảm do giá giao kỳ hạn suy yếu
Giá giao ngay HRC tại thị trường Thượng Hải giảm vào ngày hôm qua, chủ yếu do sự sụt giảm của giá giao kỳ hạn. Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống 160 NDT/tấn, còn 2.970-2.990 NDT/tấn (431-434 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT. Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng tháng 10 chốt tại mức 2.891 NDT/tấn, giảm 221 NDT/tấn so với hôm thứ tư.
Cùng với đó là sức mua suy yếu, giá phôi thanh Đường Sơn giảm 80 NDT/tấn. Một nguồn tin cho rằng việc giá tăng trong mấy ngày qua là bất thường vì đúng vào mùa tiêu thụ thấp điểm. Giá HRC chắc chắn sẽ giảm lại do thiếu sức mua.
Một thương nhân Thượng Hải cho rằng, HRC giảm giá là do sự sụt giảm mạnh của giá giao kỳ hạn. Vào đầu chiều hôm qua, giá HRC ở quanh mốc 3.020 NDT/tấn nhưng chỉ 2 giờ sau đó, giảm hơn 40 NDT/tấn.
Các nguồn tin cho rằng giá HRC giảm là hợp lý vì đà tăng trước đó chỉ là sự điều chỉnh lại quá trình tuột dốc không phanh kể từ tháng 3. Sau lần điều chỉnh này, giá HRC có thể sẽ vận động theo đúng xu hướng tâm lý thị trường.
Giá thép cây Châu Á giảm mạnh theo giá giao dịch kỳ hạn
Giá thép cây Châu Á giảm mạnh vào hôm qua do sự suy yếu của giá giao kỳ hạn làm hoang mang người mua. Hợp đồng thép cây tháng 10 trên sàn kỳ hạn SHFE giảm 200 NDT/tấn (29 USD/tấn, tầm 6.4%) xuống còn 2.931 NDT/tấn. Platts giảm giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm xuống 10.50 USD/tấn, còn 400-409 USD/tấn.
Tại Hong Kong, chỉ có một chào giá trên thị trường ở mức 420 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho lô hàng giao cuối tháng 6 còn các nhà máy khác vẫn im ắng. Giá này tương đương mức 410 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận tải 10 USD/tấn. Giá chào từ các nhà môi giới nội địa là 400 USD/tấn CFR giao vào đầu tháng 8.
Các khách hàng Châu Á đã giảm giá chào mua xuống còn 390 USD/tấn FOB , tương đương 400 USD/tấn CFR hoặc thấp hơn. Tại Singapore, giá chào ở mức 430 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 6, tương đương 422 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính 16 USD/tấn phí vận chuyển và chênh lệch khối lượng 3%. Các thương nhân rút lại chào giá sau khi thấy giá giao kỳ hạn giảm.
Sản lượng tồn kho tại Singapore cao với gần 300.000 tấn đang và sắp cập bến. Nguồn cung cao cũng kìm hãm sức mua.
Giá thép dầm hình H Hàn Quốc ổn định trong tháng 5
Hai nhà máy sản xuất thép dầm hình H của Hàn Quốc là Hyundai Steel và Dongkuk Steel Mill cho biết sẽ giữ nguyên giá giao dịch tháng 5 do sức mua suy yếu tiếp tục cản trở quá trình tăng giá của các nhà máy kể từ tháng 4.
Hồi cuối tháng 3, cả hai nhà máy đều giảm chiết khấu xuống 30.000-50.000 Won/tấn (27-44 USD/tấn) và niêm yết giá tối thiểu là 730.000 Won/tấn (646 USD/tấn). Kể từ đó, sự suy yếu của giá phế trong tháng 4 gây áp lực cho quá trình tăng giá của các nhà máy tới người mua. Tuy nhiên, Hyundai tranh cãi rằng do họ chưa thu đủ mức giá tăng cho thép từ sự tăng lên của giá phế trước đó nên không thể giảm giá thép khi phế giảm.
Giá phế loại A nhẹ trong nước đạt mức 235.000-240.000 Won/tấn (208-212 USD/tấn) vào cuối tháng 2. Đến cuối tháng 3, giá phế trèo lên mốc 260.000 Won/tấn (230 USD/tấn) trước khi giảm nhẹ còn 240.000-245.000 Won/tấn (212-217 USD/tấn) hồi cuối tháng.
Giá thép dầm hình H tại thị trường trong nước có giá 730.000-750.000 Won/tấn (646-664 USD/tấn) hồi đầu tháng 4 ngay sau khi các nhà máy tăng giá, nhưng sức mua suy yếu đã kéo giá giảm về 690.000-700.000 Won/tấn (611-620 USD/tấn) như hiện nay.
Thông thường, tháng 4 và 5 là hai tháng đỉnh cao cho doanh số bán thép dầm, tuy nhiên trong năm nay, doanh số bán bị giảm do sự trì hoãn các dự án chính phủ cho tới cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9/5. Dù vậy, hai nhà máy trên vẫn hy vọng sức mua sẽ tăng sau khi có Chính quyền mới và các dự án công cộng không còn đóng băng nữa.
Thị trường thép ống đúc Trung Quốc bất ổn
Giá giao ngay thép ống đúc Trung Quốc tăng vào hôm qua dựa vào giá thị trường tăng 2 ngày sau lễ. Tuy nhiên, triển vọng thị trường bất ổn do niềm tin suy yếu từ sụt giảm của giá giao kỳ hạn.
Trong ngày đầu tuần, các nhà thép tròn đặc thông báo sẽ duy trì giá giai đoạn 10 ngày đầu tháng 5. Theo đó, giá thép tròn đặc 20# 50-130mm của Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel cố định ở mức 3.600 NDT/tấn và 3.550 NDT/tấn xuất xưởng đã tính VAT vào đầu tháng 5.
Trong cùng ngày, nhà máy Huaigang Special Steel cũng tại Tỉnh Giang Tô cho biết sẽ duy trì giá thép tròn đặc ở mức 3.570 NDT/tấn đã tính VAT. Ba nhà máy trên quyết định giữ giá sau khi giảm liên tục 460-540 NDT/tấn trong suốt tháng 4.
Giá chào cho thép ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) tại thị trường bán lẻ Thượng Hải ở mức 4.200-4.300 NDT/tấn xuất xưởng đã tính 17% VAT, tăng 50 NDT/tấn so với 10 ngày trước đó. Giá duy trì đà tăng kể từ tuần qua nhờ giá phôi thanh và giá thép giao kỳ hạn tăng.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường suy yếu vào hôm thứ năm do giá giao kỳ hạn giảm mạnh. Hợp đồng thép cây giao tháng 10 trên sàn SHFE giảm 200 NDT/tấn, tương đương 6.4% còn 2.931 NDT/tấn.
Giá CRC Nam Âu suy yếu trước áp lực hàng nhập khẩu
Giá CRC Nam Âu suy yếu 10 Euro/tấn vào tuần này do áp lực hàng nhập khẩu trong khi HRC và thép mạ kẽm ổn định.
Giá HRC Nam Âu ở mức 505-515 Euro/tấn xuất xưởng trong khi giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ là 490-495 Euro/tấn CFR Tây Ban Nha giao tháng 6-7. Ấn Độ thậm chí còn chào thấp hơn, 480 Euro/tấn CFR giao tháng 8.
Các thương nhân và các nhà môi giới nhận được giá chào nhập khẩu ở mức 475-485 Euro/tấn cảng CFR. Một nhà môi giới cho biết thậm chí ông còn nhận được chào giá 450 Euro/tấn CIF cho thép cuộn Úc. Tuy nhiên, chỉ có một chào giá này ở mức thấp còn giá phổ biến vẫn là 470 Euro/tấn CIF.
Các nhà máy Ý giảm giá CRC trong tuần này xuống còn 610-620 Euro/tấn giao tháng 6-7 sau khi người mua bắt đầu nhận được chào giá rẻ hơn chỉ 580-585 Euro/tấn CFR Địa Trung Hải từ Trung Quốc đã tính thuế hải quan, giao tháng 8. Một nhà môi giới Ý còn nhận được chào giá 560 USD/tấn CIF cảng Ý từ Trung Quốc đã tính thuế, giao tháng 8.
Giá HDG vẫn ổn định với giá chào từ Nam Âu là 650-670 Euro/tấn xuất xưởng mặc dù người mua chỉ dự thầu ở mức 640 Euro/tấn xuất xưởng. Các nhà máy trong nước vẫn giữ giá ổn định dựa trên nguồn cung thấp và nhu cầu tiêu thụ tốt.
CRC đang giảm do áp lực hàng nhập khẩu mặc dù chênh lệch thời gian giao hàng của Trung Quốc với các nhà máy nội địa Châu Âu tới 2 tháng. Người mua có đặt hàng nhưng không nhiều.
Giá phế Mỹ tháng 5 bình ổn
Các nhà máy thép Mỹ có thể mua được phế tại mức giá không đổi đối với hầu hết các loại phế cũng như các khu vực trong bối cảnh môi trường giao dịch rất lỏng lẻo. Giá phế chất lượng cao tại Detroit tăng, cùng với phế cắt và vụn ở Ohio và Pittsburg trong khi giá phế chất lượng cao tại phía Nam gặp áp lực.
Platts vẫn duy trì giá phế vụn hàng ngày của Mỹ tại mức 300-310 USD/tấn đã tính phí giao hàng trong ngày thứ năm, tăng 5 USD/tấn so với tháng 4. Tại Midwest, tiến về phía đông giá gần mwsc 310 USD/tấn trong khi về phía Tây giá ở mức 300 USD/tấn.
Phế vụn tại thung lũng Ohio đạt mức 315 USD/tấn đã tính phí giao hàng nhưng một khi các nhà máy thép có đủ dự trữ, họ sẽ đàm phán giá xuống.
Các nhà máy ở Southeast giao dịch tại mức giá không đổi trong khi vài nhà máy có thể đàm phán phế chất lượng cao xuống cao nhất 10 USD/tấn. Đơn hàng phế vụn ở phía Nam chốt ở mức 295-310 USD/tấn đã tính phí giao hàng tới nhà máy.
Các nhà máy mua phế chất lượng cao với giá thấp hồi tháng trước hiện đã tăng giá chào vào tuần này để bù chênh lệch giá trên thị trường có thể khiến họ bị tuột nguồn nguyên liệu sản xuất. Phế busheling số 1 và phế kim loại bó số 1 có giá từ 355-390 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Các nhà máy CIS tăng giá chào xuất khẩu HRC
Các nhà máy thép cuộn CIS đang nỗ lực tăng giá chào dựa vào xu hướng tăng gần đây của giá HRC Trung Quốc.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc đã tăng 16 USD/tấn kể từ 25/4 mặc dù giảm lại vào hôm qua, và các nhà máy CIS có thể sử dụng mức tăng này làm đòn bẩy. Gía chào từ CIS tăng lên 440-450 USD/tấn FOB còn giá giao dịch không dưới 440 USD/tấn FOB.
Giá chào từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 455 USD/tấn CFR, tương đương mức 440 USD/tấn FOB. Ngay khi giá chào từ Trung Quốc tăng, các nhà máy CIS đã chốt được vài đơn hàng ở mức 440 USD/tấn FOB và nhận được nhiều chào mua hơn ở mức tương tự, tuy nhiên, họ quyết định ngưng bán thép tháng 6 tại mức giá này và bắt đầu chào tại mức 450 USD/tấn. Tuy nhiên, họ vẫn chưa chốt được đơn hàng nào trên mức 440 USD/tấn.
Tuy nhiên, các khách hàng Địa Trung Hải cố gắng đặt hàng ở mức giá thấp hơn, thậm chí 430 USD/tấn nhưng không được người mua chấp nhận. Kể từ 28/4, không có đơn hàng nào chốt ở mức 430 USD/tấn FOB.
Một nhà máy Trung Đông cho biết, kể từ ngày 4/5, giá chào Trung Quốc giảm trở lại và điều này gây hoang mang cho người mua. Nhiều người đang chờ tình hình thị trường rõ ràng hơn vào tuần tới.
Giá chào CRC CIS tuần này ở mức 490-500 USD/tấn FOB mặc dù giá giao dịch thấp hơn 10 USD/tấn. Trong ngày 4/ 5, Platts tăng giá HRC CIS lên thêm 2.50 USD/tấn, đạt mức 435-440 USD/tấn FOB Biển Đen. CRC CIS vẫn cố định ở mức 485-490 USD/tấn FOB.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts vẫn duy trì giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 415.50 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, không đổi so với ngày trước đó.
Giá xuất khẩu thép cây vẫn ổn định do các hoạt động giao dịch chậm chạp, tuy nhiên, các nhà xuất khẩu tập trung vào thị trường nội địa vì có giá tốt hơn.
Trong ngày thứ năm, giá chào vẫn ổn định tại mức 430-440 USD/tấn FOB nhưng không có giao dịch nào lớn.
Giá phế Châu Âu ổn định trong tháng 5
Các nguồn tin dự báo giá phế Châu Âu sẽ ổn định hoặc giảm nhẹ vào tháng 5.
Tại Đức, giá phế vụn E40 vẫn ổn định tại mức 250-265 Euro/tấn (273-290 USD/tấn) với vài giao dịch chốt ở mức thấp hơn 5 Euro/tấn. Một thương nhân Pháp cho biết đang đàm phán tại mức giá ngang bằng với tháng 4 nhưng cũng có thể giảm 5 Euro/tấn.
Thị trường thép dài chịu áp lực với giá thép cây 12mm tại Pháp giảm 10 Euro/tấn xuống còn 170-180 Euro/tấn. Thị trường Đức ổn định tại mức giá 190-200 Euro/tấn đã tính phí giao hàng nhưng giá có thể giảm vì chịu ảnh hưởng từ những khu vực khác.
Các nhà máy thép dài đã không thể chốt được giá giao dịch cao hơn trong 2 tháng qua do bước vào mùa tiêu thụ thấp điểm.
Giá phế E40 tại Ý ổn định ở mức 260 Euro/tấn trong khi phế E40 tại Tây Ban Nha ở mức 245-253 Euro/tấn. Phế cũ dày E3 và phế mới mỏng E4 ở mức 240 Euro/tấn và 260 Euro/tấn.
Kardemir tăng giá chào bán sau khi mở cửa bán lại
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép dài do tiêu thụ mạnh và nguồn cung hạn chế đối với vài mặt hàng. Nhà máy Kardemir đã trở lại thị trường vào hôm qua và tăng giá chào bán.
Giá bán mới của Kardemir cho thép thanh tròn là 1.640 TRY/tấn (642 USD/tấn) xuất xưởng trong khi giá thép cay là 1.653 TRY/tấn (457 USD/tấn) xuất xưởng, cùng tăng 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn) so với giá niêm yết hôm 25/4.
Công ty này cũng nhận đơn hàng thép hình và thép góc với giá cao hơn. Giá tất cả các loại thép hình tính theo đồng lira tăng 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn) so với giá niêm yết cũ. Kardemir tăng giá thép hình IPE-IPN-UPNs 160-300mm lên 1.730 TRY/tấn (487 USD/tấn) xuất xưởng trong khi loại IPE-IPN-UPN 320-550mm là 1.800 TRY/tấn (507 USD/tấn). Giá thép hình HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm tăng cùng mức lên 1.745 TRY/tấn (491 USD/tấn), 1.820 TRY/tấn (512 USD/tấn) và 1.895 TRY/tấn (533 USD/tấn).
Công ty này cũng tăng giá các mặt hàng thép góc với mức tương tự. Cụ thể, thép góc 150x15mm tăng lên 1.855-1.905 TRY/tấn (522-536 USD/tán), thép góc 180x18mm tăng lên 1.895 TRY/tấn (559 USD/tấn) còn 200x16-24mm tăng lên 1.985-2.075 TRY/tấn (559-584 USD/tấn). Các mức giá trên chưa tính 18% VAT.
Tuy nhiên, công ty này chưa bán lại phôi thanh. Trong vài ngày tới nhà máy này sẽ nhận bán phôi thanh trở lại với giá cao hơn, hưởng ứng theo giá phôi thanh và phế nhập khẩu. Giá phôi thanh nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 425 USD/tấn xuất xưởng trong khi phôi thanh nhập khẩu từ CIS tăng lên 410 USD/tấn.