Giá tấm mỏng Mỹ vẫn suy yếu dù các đồn đoán tăng giá
Giá tấm mỏng Mỹ giảm nhẹ vào cuối tuần qua dù các đồn đoán tăng giá.
Platts giảm giá HRC xuống còn 575-600 USD/tấn còn CRC giảm từ 780-800 USD/tấn xuống còn 775-800 USD/tấn xuất xưởng Midwest (indiana).
Một nhà máy đã nghe rằng có một nhà máy khác nhận tương đối đủ đơn hàng và chuẩn bị tăng giá, dự báo trong 10 ngày tới.
Cuối ngày thứ sáu, nhà máy California Steel Industries đã thông báo tăng giá 30 USD/tấn cho tất cả các sản phẩm sản xuất kể từ 2 tuần đầu tháng 7.
Nhà máy này cho hay, tình hình đơn hàng tháng 5 tốt. Giá đã giảm xuống 580-590 USD/tấn cho các đơn hàng HRC nhỏ hơn. CRC ở mức 770-800 USD/tấn, với vài giá thấp hơn cho các đơn hàng lớn.
Một trung tâm dịch vụ cho biết, giá 575 USD/tấn cho HRC vẫn có sẵn với giá thấp hơn cho các đơn hàng lớn. Đối với HDG, vài nhà máy chào bán 780 USD/tấn nhưng có giá chào 770 USD/tấn.
Giá thép cây Nga chấm dứt đà giảm giá trong tháng 6
Các nhà máy Nga đang cố gắng tăng giá thép cây và nếu thành công, dù chỉ là một ít, nhưng tháng 6 sẽ đánh dấu tháng đầu tiên tăng giá kể từ đầu tháng 1 năm nay.
Giá cho thép cây 12mm là 27.400-29.000 Rubs/tấn (483-513 USD/tấn) và 27.000-28.600 Rubs/tấn (477-504 USD/tấn) cho thép cây 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế.
Giá 29.000 Rubs/tấn của các nhà máy EAF có thể là quá tham vọng nhưng có người tin rằng giá sẽ tăng thành công, với mức tăng 750 Rubs/tấn (13 USD/tấn) so với tháng trước, chưa thuế.
Hai nhà máy niêm yết giá tháng 6 tại mức 27.400 Rubs/tấn. Vì lý do này, các nhà máy khác có thể phải điều chỉnh giá. Dù mức lợi nhuận này không thích hợp cho họ vì họ sử dụng hàng tồn đắt hơn.
Hai nhà máy trên đang sản xuất thép cây với 25-40% và 100% gang thỏi và do đó, họ có thể điều chỉnh giá dựa vào chi phí sản xuất thấp hơn. Đối với các nhà máy sử dụng phế, khó để bắt kịp đà tăng giá mặc dù chi phí phế thấp. Giá 27.000 Rubs/tấn có thể không thoải mái cả với các nhà máy lò cao.
Platts tăng giá thép cây Nga hàng tuần lên mức 22.850-23.200 Rubs/tấn (404-410 USD/tấn) CPT Maxcova, tăng 725 Rubs/tấn (13 USD/tấn) so với tuần trước. Nếu xét theo giá đồng dolla thì sẽ tăng 15 USD/tấn dựa vào sự tăng giá đồng Rub. Giá thép cây CPT Maxcova chỉ chênh lệch 5 USD/tấn so với giá FOB Biển Đen.
Định giá phôi thanh CIS
Platts vẫn duy trì giá phôi thanh CIS tại mức 392 USD/tấn fob trong ngày thứ sáu, không đổi so với ngày trước đó.
Giá chào phôi thanh CIS tháng 7 vẫn ổn định. Một nhà máy Nga tìm kiếm giá 400 USD/tấn fob thanh toán trước một ít. Một nhà máy Ukraina đặt mục tiêu giá 390 USD/tấn FOB Biển Azov cho lô hàng 10.000 tấn thanh toán trước.
Một thương nhân cho biết, một đơn hàng 5.00-6.000 tấn phôi thanh 130mm Nga giao tháng 6 ở mức 428 USD/tấn CFR Algeria, gần mức 395-400 USD/tấn fob Biển Đen. Tuy nhiên, giá này chưa được phía nhà máy xác nhận.
Một đơn hàng phôi thanh Belorus được bán tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 380 USD/tấn fob Biển Đen. Giá giảm chỉ dành cho phôi thanh 140mm thanh toán trước toàn bộ. Nhà máy này chưa xác nhận đơn hàng.
Các nhà máy CIS cố gắng tăng giá thép cuộn và phôi phiến tháng 7
Các nhà máy CIS đang cố gắng tăng giá thêm 10 USD/tấn cho HRC tháng 7, đạt mức 445 USD/tấn fob.
Các nhà máy cho rằng thị trường đã cải thiện. Tuy nhiên, do đang trong lễ ăn chay nên triển vọng tăng giá khó thành công. Song họ vẫn công bố giá mới và chờ vài tuần để thị trường phản hồi.
Khả năng nhận đủ đơn hàng HRC xuất khẩu tháng 7 là rất khó, do các nhà máy CIS đã mất thị trường ở Đông Nam Á vì Trung Quốc trở lại cạnh tranh. Do đó, đạt được mục tiêu tăng giá là một thách thức lớn.
Các nhà máy CIS hiện chỉ chấp nhận giá 435-440 USD/tấn FOB Biển Đen, ít nhất là 435 USD/tấn.
Đối với CRC, giá hơi thấp với giá chào mới vượt mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen. Ít nhất một nhà máy Nga chào bán tại mức 510 USD/tấn nhưng mức 495-500 USD/tấn mới được cả bên mua và bán chấp nhận. Giá CRC gần đây quá thấp nhưng hiện tại đã khôi phục được mức chênh lệch bình thường 60-70 USD/tấn với HRC.
Giá chào phôi phiến cũng tăng, với giá chào mới từ hai nhà máy Nga là 400 USD/tấn và 405 USD/tấn FOB Biển Đen, nhưng còn quá sớm để biết giá có được chấp nhận hay không. Phôi phiến Braxin vẫn có sẵn tại mức 388-390 USD/tấn fob Biển Đen. Không ai chào bán dưới mức 400 USD/tấn FOB nhưng có thể bảo toàn được giá 395 USD/tấn.
Mặc dù giá từ Iran rất thu hút, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hiếm khi mua phôi phiến Iran vì các vấn đề chất lượng. Tuy nhiên, với sự suy yếu của giá quặng thì không dễ để các nhà máy CIS tăng giá. Thậm chí giá 395-400 USD/tấn FOB là đã tốt lúc này.
Platts tăng giá HRC và CRC CIS thêm 2.5 USD/tấn và 12.5 USD/tấn so với thứ năm, đạt mức 435-440 USD/tấn và 495-500 USD/tấn FOB Biển Đen, Giá phôi phiến CIS hàng tuần vẫn ổn định ở mức 395-400 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giá xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu nhẹ
Khối lượng xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ ở mức tương đối cao trong tháng 4, ở mức 124.420 tấn, cao gấp đôi cùng kỳ năm ngoái, nhưng thấp hơn mức 143.960 tấn tháng 3.
Giá xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh theo giá nội địa trong tháng trước nhờ tiêu thụ mạnh, nhưng đã bắt đầu suy yếu trong mấy tuần qua do nhu cầu tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu chậm. Giá xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ giảm 5 USD/tấn, còn 465-475 USD/tấn FOB.
Bỉ trở thành nhập khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ lớn nhất trong tháng 4, ở mức 23.750 tấn mặc dù đã không nhập nhiều vào cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tới Mỹ ở mức 21.330 tấn, tăng 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu tới Haiti đạt mức 15.900 tấn trong tháng 4 năm nay trong khi năm ngoái không nhập khẩu.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 430 USD/tấn (425-435 USD/tấn) trong ngày thứ sáu.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn xa lánh thị trường xuất khẩu vì nhu cầu tiêu thụ trì trệ.
Một thương nhân cho biết, giá xuất khẩu sẽ giảm mạnh từ để thu hút người mua, từ mức giá 440-450 USD/tấn FOB.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu nhẹ ở vài khu vực
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu suy yếu dần ở vài khu vực trong mấy ngày gần đây do vấn đề nguồn cung hạn chế hạ nhiệt. Tuy nhiên, giá tại Marmara vẫn cao hơn những nơi khác vì vài loại thép có nguồn cung thắt chặt.
Giá xuất xưởng thép cây 12-32mm tiếp tục suy yếu nhẹ vài khu vực. Giá tại Iskenderun giảm 10 TRY/tấn (3 USD/tấn), còn 2.030-2.050 TRY/tấn đã tính thuế trong khi giá tại Izmir giảm cùng mức xuống còn 2.040-2.060 TRY/tấn.
Trong khi đó, giá thép cây 12-32mm của các nhà máy nhìn chung vẫn bình ổn tại mức 1.800-2.020 TRY/tấn xuất xưởng đã thuế, tương đương 475-485 USD/tấn xuất xưởng chưa thuế trong khi giá xuất khẩu và nội địa chênh nhau 35-40 USD/tấn. Vài giao dịch thấp thậm chí giảm 10 USD/tấn do tiêu thụ thấp và giá xuất khẩu thấp.
Giá thép thanh nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức cao 440 USD/tấn xuất xưởng, cũng suy yếu nhẹ còn 430-435 USD/tấn xuát xưởng trong khi giá chào phôi thanh từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 410-415 USD/tấn CFR.
Bộ trưởng kinh tế Nihat Zeybekci thông báo giảm thuế hải quan cho thép nhập khẩu để giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn cung trong nước.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 500-510 Euro/tấn (563.90-575.18 USD/tấn xuất xưởng) Ruhr trong ngày thứ sáu.
Các khách hàng Benelux và Đức cho biết giá giao dịch từ các nhà máy Tây Âu tại mức 500-510 Euro/tấn xuất xưởng.
Một nhà máy Ý đang chào tại mức 470 Euro/tấn xuất xưởng. Một đơn hàng HRC Nga được chốt tại mức 430 USD/tấn CIF Ý cuối tuần qua, nhưng nguyên liệu Nga hiện đang rủi ro vì có thể bị truy thu thuế.
Các chào giá nhập khẩu phổ biến là từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ với giá 450-460 Euro/tấn CIF. Các nhà máy này cũng chào 480-485 Euro/tấn CIF Antwerp.
Xu hướng giá thép cuộn không gỉ Châu Á suy yếu theo niken
Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B xuất xứ Đài Loan và Hàn Quốc giảm 65 USD/tấn trong tuần qua, còn 1.840-1.920 USD/tấn CFR Đông Á và cảng Đông Nam Á. Các thành viên thị trường cho biết, sự suy yếu trên còn do ảnh hưởng từ sự sụt giảm của giá thép nội địa Trung Quốc trong khi tâm lý thị trường bị suy yếu từ sự giảm giá nhanh của niken xuống dưới 9.000 USD/tấn.
Giá chào từ nhà máy Yieh United Steel Corp (Yusco) giảm xuống mức thấp 1.850 USD/tấn CFR sau khi thị trường định giá xuất khẩu tháng 6 của CRC 304 là 1.900 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, người mua cho rằng giá vẫn chưa thể cạnh tranh với giá chào từ Trung Quốc, hoặc với giá nội địa Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, nhà máy Taigang Stainless Steel vẫn chưa công bố giá xuất khẩu mới nhưng giá cũ là 1.790 USD/tấn FOB. Giá xuất khẩu cho mặt hàng mua tại thị trường giao ngay là 1.700 USD/tấn FOB.
Trong ngày 1/ 6, giá giao dịch HRC 304 3mm và CRC 2mm ở mức 11.900-12.300 NDT/tấn (1.746-1.804 USD/tấn) và 12.700-13.300 NDT/tấn. Giá HRC giảm 1.400 NDT/tấn so với tháng trước trong khi CRC giảm 1.025 NDT/tấn so với tháng trước. Đây là định giá thấp nhất trong 10 tháng.
Cùng với đó, giá giao ngay CRC 430/2B CRC 2mm không có niken giảm trong tháng qua, còn 7.700-7.800 NDT/tấn trong ngày 1/ 6, giảm 400 NDT/tấn so với tháng trước.
Giá giao ngay dự báo ổn định tại mức thấp trong tháng 6, mùa tiêu thụ thấp điểm của ngành thép. Thêm vào đó, xu hướng tăng giá của niken và fero đều đã suy yếu và quá yếu để hỗ trợ giá thép không gỉ.
Trong khi đó, nhà máy Baosteel giảm giá niêm yết tháng 6 tại các chi nhánh Ningbo Baoxin Stainless Steel xuống 1.300 NDT/tấn cho CRC 304. Tương tự, giá niêm yết CRC 304 của Baoxin giảm còn 14.200 NDT/tấn. Nhà máy này cũng giảm giá CRC 430 xuống 700 NDT/tấn còn 9.200 NDT/tấn.
Giá niken giao dịch bằng tiền mặt tại sàn LME đạt mức 8.850-8.865 USD/tấn trong ngày 25/5, giảm 205 USD/tấn so với tuần trước.
Giá thép ống cấu trúc Hàn Quốc gặp áp lực suy yếu
Giá thép ống cấu trúc Hàn Quốc được các nhà máy dự báo ổn định trong tháng này nhưng các thương nhân không tự tin lắm và cho rằng giá sẽ giảm. Hiện tại, giá thép ống đen SS400 dày 2mm đạt mức 670.000-680.000 Won/tấn (599-606 USD/tấn), giảm từ đỉnh cao 807.000-808.000 Won/tấn (721-721 USD/tấn) cách đây 4 tháng.
Giá thép ống gặp áp lực từ sự suy yếu của HRC. Nguồn hàng tồn nhập khẩu HRC giá rẻ đã dập tắt các nỗ lực tăng giá của các nhà máy thép ống kể từ năm ngoái.
Kể từ tháng 11 năm ngoái, các nhà máy thép ống đã tích cực tăng giá bán theo sự tăng giá của HRC. Đến giữa tháng 1, giá thép ống cấu trúc đạt đỉnh 807.000-808.000 Won/tấn (721-721 USD/tấn) từ mức 580.000 Won/tấn giữa tháng 11.
Giá thép ống Hàn Quốc kể từ đó suy yếu theo sự trượt giảm của HRC nhập khẩu vào Trung Quốc. Trong ngày 31/5, Platts giảm HRC SS400 dày 3mm xuống còn 435-440 USD/tấn FOB Trung Quốc từ mức 507-515 USD/tấn FOB đầu tháng 3.
Các nhà máy thép ống Hàn Quốc dự định sử dụng HRC trong nước từ Posco hoặc Hyundai Steel để sản xuất nhưng các nhà máy cỡ nhỏ và vừa ưa chuộng nguồn hàng nhập khẩu giá rẻ.
Các nhà máy đang nhắm mục tiêu tăng giá nhưng theo các thương nhân dự báo giá sẽ giảm vì cả nhà máy và thương nhân đều cố gắng giảm hàng tồn, một nhiệm vụ đầy khó khăn khi bước vào mùa ẩm ướt ở Hàn Quốc kéo theo sức mua chậm chạp.
Tuy nhiên, tình hình năm nay sẽ không quá tệ. Các nhà máy thép xây dựng cho biết, Tổng thống mới Moon Jae sẽ thúc đẩy các dự án công cộng và khuyến khích đầu tư tư nhân cho xây dựng.
Giá thép ống đúc Trung Quốc ổn định theo giá thép tròn đặc
Triển vọng bất ổn dẫn tới sự ổn định của thép ống đúc Trung Quốc tuần qua sau khi tăng ở mức vừa phải trước đó.
Trong ngày 31/5, các nhà máy thép tròn đặc thông báo giữ nguyên giá cho các đơn hàng ngày 1-10/6.
Hai nhà máy Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel tại tỉnh Giang Tô đã duy trì giá thép tròn đặc 20# 50-130mm tại mức 3.750 NDT/tấn (550 USD/tấn) và 3.700 NDT/tấn cho các đơn hàng đầu tháng 6, giá xuất xưởng đã tính thuế.
Trong ngày 1/ 6, nhà máy khác là Huaigang Special Steel cũng giữ nguyên giá thép tròn đặc tại mức 3.750 NDT/tấn đã có thuế.
Trong ngày thứ hai tuần trước, giá chào thép ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) sản xuất tại miền đông đạt mức 4.250-4.350 NDT/tấn xuất xưởng đã tính thuế, tăng 50 NDT/tấn so với cách đó 10 ngày.
Các nhà máy thép dầm hình H Hàn Quốc đặt mục tiêu tăng giá trong tháng 6
Hai nhà máy Hàn Quốc gồm Hyundai Steel và Dongkuk Steel Mill đang đặt mục tiêu tăng giá thép dầm hình H tháng 6 thêm 20.000 Won/tấn (18 USD/tấn).
Dongkuk không tiết lộ giá niêm yết nhưng giá mới của Hyundai Steel cho thép dầm hình H cỡ lớn tầm 840.000 Won/tấn và cỡ nhỏ là 690.000 Won/tấn.
Kể từ đầu tháng 4, hai nhà máy này đã cố gắng tăng giá thép dầm thêm 30.000-50.000 Won/tấn (27-45 USD/tấn) nhưng sức mua trì trệ dập tắt ý nỗ lực của họ. Giá thép dầm hình H cỡ nhỏ giảm còn 645.000-655.000 Won/tấn (575-584 USD/tấn) cuối tháng 5 từ mức 730.000-750.000 Won/tấn (650-670 USD/tấn) đầu tháng 4.
Nhà máy Dongkok cho biết, bản thân họ không thể để giá giảm nữa vì đã ở mức đe dọa tới chi phí sản xuất. Trong tháng này, cả hai nhà máy trên đều tăng giá thép dầm hình H lên 690.000 Won/tấn (615 USD/tấn) hoặc hơn.
Nhà máy Dongkuk cho biết, nhu cầu tiêu thụ thép dầm hình H đã suy yếu nhiều tháng nhưng thị trường có vẻ đã chạm đáy. Dự báo tình hình thị trường khởi sắc vào tháng 6. Tháng này sẽ là bước chuyển cho các đơn hàng thép dầm trước khi tiêu thụ chậm lại vào mùa mưa và khô nóng tháng 7 và 8.
Nhu cầu tiêu thụ trì trệ đã đẩy Hyundai Steel tới việc bảo trì sớm hơn kế hoạch tháng 7/tháng 8 như bình thường.
Công ty này sẽ bảo trì 2 xưởng thép hình cỡ vừa và hạng nặng tại Pohang từ 26/6/-5/7, thời gian tầm 10 ngày. Hai nhà máy này có tổng công suất 1.4 triệu tấn/năm.
Thép cây Châu Á ổn định do người mua trở lại thị trường
Thị trường thép cây Châu Á vẫn ổn định trong ngày thứ sáu. Platts duy trì giá thép cây BS500 16-20mm tại mức 429-433 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ năm.
Tại Singapore, một đơn hàng 4.000 tấn được chốt tại mức 435 USD/tấn CFR giao tháng 6, tương đương 431 USD/tấn FOB Trung Quốc nếu quy về chất lượng. Hai nguồn tin cho biết, giá này là hợp lý cho các lô hàng. Vài người mua vẫn nghĩ rằng giá này cao so với giá trong nước chỉ 404-425 USD/tấn sau khi trừ phí nhập khẩu.
Một lô hàng bán khống giao tháng 6/tháng 7 được chào tại mức 435 USD/tấn CFR, một nhà môi giới cho biết.
Có ít giá chào tại Hồng Kông. Một nhà môi giới nội địa chào tại mức 440 USD/tấn CFR, tương đương 430 USD/tấn trọng lượng thực tế có tính 10 USD/tấn phí vận chuyển. Giá tại thị trường Thượng Hải tương đương mức 480 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, nên các nhà máy tập trung vào thị trường trong nước.
Tồn kho thép cây giảm chạm trong 2 tuần đầu tháng 5 nhưng liệu thép cây có bị sức ép từ nguồn cung quá mức không. Dựa vào chênh lệch giá lớn giữa thép dài và thép dẹt, giá thép cây có thể sẽ tiếp tục suy yếu.
Bản tin phế tuần: Thị trường phế trầm lắng
Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn trong tuần qua, thể hiện ở giá giao dịch các đơn hàng không đổi trong bối cảnh thị trường suy yếu.
Xuất khẩu chậm chạp, và dấu hiệu suy yếu của sức mua trong nước cộng với lễ ăn chay ở vài khu vực đã dẫn tới thị trường trầm lắng.
Vài nguồn tin cho rằng, thật bất thường khi giá phế ổn định vì sự biến động của thị trường thép lúc này.
Trong khi đó, giá xuất khẩu phế Nhật Bản dao động trong tuần, nhưng không có yếu tố đặc biệt nào ảnh hưởng tới thị trường.
Trong ngày thứ sáu, Hyundai Steel cho biết đã chào mua phế H2 Nhật ở mức giá 24.000 Yên/tấn (215 USD/tấn FOB), không đổi so với ngày 26/5. Nhà máy này đã đặt mua 10.000 tấn ở lần chào mua trước.
Một nhà máy khác của Hàn Quốc là Dongkuk Steel Mill cũng chào mua nhưng không công bố giá. Một thương nhân Tokyo cho biết, các thương nhân Nhật Bản đang đặt mục tiêu giá 25.500 Yên/tấn FOB xuất khẩu.
Tại Việt Nam, các nhà máy nhắm tới mục tiêu giá 255 USD/tấn CFR cho phế H2 Nhật, cao hơn 5 USD/tấn so với 19/5 trong khi giá chào là 260 USD/tấn CFR.
Tại Nhật, các thương nhân đang thu mua phế H2 để xuất khẩu tại mức giá 24.500 Yên/tấn FAS, không đổi so với tuần trước.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing cũng tăng giá mua phế thêm 1.000 Yên/tấn cho tất cả các loại phế, nhưng chỉ tại các xưởng ở Utsunomiya kể từ ngày 24/5. Phế H2 trọng lượng xe tải giao tới các xưởng ở Utsunomiya có giá là 24.500 Yên/tấn.
Platts duy trì giá phế H2 Nhật tại mức 24.000-25.000 Yên/tấn FOB vịnh Tokyo, không đổi so với lần định giá trước.
Trong khi đó, thị trường phế HMS khối lượng lớn nhập khẩu vào Đông Á vẫn im ắng do các nhà máy tìm kiếm những đơn hàng giao nhanh hơn.
Giá chào mua và chào bán đều không đổi so với tuần trước cho phế HMS I/II 80:20 khối lượng lớn, tầm 265-275 USD/tấn CFR Hàn Quốc cho giá chào bán và 255 USD/tấn CFR hoặc thấp hơn cho giá chào mua.
Các nhà máy Hàn Quốc và Việt Nam không quan tâm tới các lô hàng phế ở xa như Mỹ vì khối lượng lớn và thời gian giao hàng lâu trong khi thị trường bất ổn. Thay vào đó, họ chọn mua các lô hàng gần như Hồng Kông và Nga.
Trong ngày 19/5, một nhà máy Việt Nam đặt mua 3.000-6.000 tấn phế AB (50:50) Hồng Kông tại mức 250 USD/tấn CFR. Trong tuần này, một nhà máy Việt Nam đã đặt mua 5.000-6.000 tấn phế Hồng Kông tại mức 247-250 USD/tấn CFR.
Xét về nhu cầu mua phế giao nhanh, nhà máy Hyundai Steek (cả Hàn Quốc và Nhật Bản) đã đặt mua phế A3 Nga tại mức giá 263 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần này, không đổi so với giá mua của Dongkuk tuần kề cuối tháng 5.
Platts vẫn duy trì giá phế HMS I/II 80:20 Đông Á tại mức 255-265 USD/tấn CFR trong ngày thứ tư.
Bản tin quặng tuần: Nguồn cung tăng cao kéo giá suy yếu
Nguồn cung quá mức tiếp tục gây sức ép tới giá quặng nhập khẩu tuần này, dù nhiều người mua đặt hàng sau thời gian ráo riết giảm hàng tồn.
Platts tăng giá quặng chứa 62% sắt IODEX lên 1 USD/tấn so với ngày thứ năm, đạt mức 57.40 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc vào hôm thứ sáu. Tuy nhiên, giá giảm 60 cents so với tuần trước đó.
Với nguồn cung sẵn có tại các cảng Trung Quốc và ở thị trường thế giới, người mua do dự đặt hàng, gây nên nhiều đồn đoán giá tiếp tục giảm trong thời gian tới.
Nhiều nhà tiêu thụ cuối cho hay, họ không vội mua hàng vì đã có đủ nguyên liệu từ những hợp đồng dài hạn trước đó. Một nhà máy phía Đông Trung Quốc cho biết, họ không cần mua hàng vào tháng này mà thay vào đó là đang cố gắng bán hàng dư tại cảng.
Trong khi lợi nhuận sản xuất thép vẫn tốt, các nguồn tin cho biết trong ngắn hạn thì lợi nhuận này sẽ không bền vững vì tiêu thụ thép sẽ suy yếu vào hè.
Giá giao ngay phôi thanh Đường Sơn giảm 10 NDT/tấn so với thứ năm, còn 3.080 NDT/tấn (452.48 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ sáu.
Mỏ khai thác khoáng sản ở Mount Whaleback của BHP nằm tại khu vực Pilbara miền tây nước Úc đã hoạt động hết công suất trở lại sau vụ hỏa hoạn xảy ra ngày thứ năm, phát ngôn viên nhà máy này cho hay.
Quan điểm thị trường không thống nhất về tầm ảnh hưởng có thể từ sự cố trên. Trong khi một số cho rằng sẽ hỗ trợ thị trường tạm thời, chấm dứt đà giảm giá thì số khác cho rằng giá không thể tăng được vì có quá nhiều hàng tại cảng Trung Quốc.
Trong khi đó, nguồn cung quặng cục thắt chặt tại các cảng và chi phí tương đối cao với giá tiếp tục tăng. Platts định mức chênh lệch quặng cục giao ngay với quặng tinh chứa 62% sắt là 0.1165 USD/tấn khô trong ngày thứ tư, tăng 0.0185 USD/tấn khô thứ tư tuần trước đó, và cũng tăng 0.1010 USD/tấn khô so với mức thấp nhất ngày 12/4/2017.
Bản tin than đá tuần: Giá suy yếu với triển vọng u ám
Thị trường than đá giao ngay Châu Á-Thái Bình Dương suy yếu trong tuần qua do các giá thấp tại Trung Quốc sau hai ngày trở lại hoạt động sau lễ.
Platts giảm giá xuất khẩu than đá chất lượng cao của Úc xuống 2 USD/tấn còn 151 USD/tấn trong ngày thứ sáu. Giá tại thị trường thứ cấp giảm 6.50 USD/tấn còn 149 USD/tấn CFR Trung Quốc cùng ngày.
Tại thị trường than đá chất lượng cao, có nhiều giá chào bán trong ngày thứ sau khi Trung Quốc hoạt động trở lại, hầu hết là giao hàng nhanh.
Sự sụt giảm mạnh của giá than đá giao kỳ hạn Trung Quốc trên thị trường Đại Liên cộng với giá than đá và than cốc giảm tại nội địa, cho thấy người mua lo lắng với bối cảnh thị trường suy yếu. Kết quả là, nhu cầu tiêu thụ suy yếu so với trước đó, mặc dù các nhà máy thép vẫn hưởng được lợi nhuận tốt.
Mặt hàng duy nhất tiếp tục có thanh khoản giao ngay tốt là PCI, vì các nhà máy và thương nhân tiếp tục mua. Các nguồn tin cho rằng giá PCI đủ rẻ để mua mà không cần chần chừ. Việc thiếu nguồn cung trong nước Trung Quốc đã giúp đẩy sức mua tăng lên.
California Steel tăng giá tấm mỏng thêm 30 USD/tấn cho các đơn hàng 2 tuần đầu tháng 7
California Steel Industries thông báo tăng 30 USD/tấn cho tất cả các mặt hàng thép trong 2 tuần đầu tháng 7.
Nhà máy này cho biết, khi họ đạt được mục tiêu 2 tuần thì hoặc là sẽ ngưng sản xuất hoặc là thông báo giữ giá.
Các nguồn tin cho biết, có đồn đoán rằng giá tấm mỏng sẽ tăng sớm, ít nhất là ổn định.
Nhà máy này cho biết, có nghe tin một nhà máy đã nhận đủ đơn hàng nên sắp sửa tăng giá, tuy nhiên phải khoảng 10 ngày nữa.
Giá HRC Châu Á ổn định do các nhà máy giữ giá trong khi người mua thận trọng
Giá HRC Châu Á ổn định trong ngày thứ sáu do các nhà máy vẫn giữ giá chào bán trong khi người mua thận trọng. Platts vẫn duy trì giá HRC SS400 dày 3mm tại mức 435-439 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Giá nhập khẩu vào Đông Á được Platts định mức 445-449 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 50 cents so với tuần trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 5 NDT/tấn, còn 3.150-3.160 NDT/tấn (462-463 USD/tấn) xuất xưởng đã có thuế.
Các nhà máy Trung Quốc vẫn duy trì giá chào tại mức 440 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400 mặc dù giá nội địa giảm. Đối với các nhà máy, việc cắt giảm giá là vô ích do xu hướng thị trường chưa rõ ràng và người mua sẽ không đặt hàng.
Thực vậy, hầu hết không ai chào mua ở cả Trung Quốc và các nước Châu Á khác. Chỉ một hoặc hai người mua tại Việt Nam tham gia vào thị trường nhưng mức giá chào mua chỉ ở mức 425 USD/tấn CFR cho thép cuộn SAE giao tháng 8.
Vài thương nhân bán khống chào tại mức 450 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 8 với niềm tin giá chào từ Trung Quốc sẽ giảm theo sự suy yếu của giá nội địa Trung Quốc và khối lượng giao dịch thấp.
Dù vậy, các nguồn tin Trung Quốc không quá bi quan, cho rằng giá trong nước vẫn cao và khối lượng giao dịch không thấp - hai nhân tố hỗ trợ giá xuất khẩu. Chênh lệch giá thép cuộn SAE1006 2.0mm với HRC SS400 10 USD/tấn.
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á cải thiện dù sức mua yếu ớt
Giá chào phôi thanh Trung Quốc tới Đông Nam Á ổn định trong tuần qua do lễ ăn chay và mùa mưa kìm hãm sức mua.
Giá chào cho phôi thanh 120/130mm Trung Quốc ở mức 440-450 USD/tấn CFR Manila, không đổi so với tuần trước đó. Theo các thông tin, phôi thanh Q275 130mm được đặt mua tại mức 420 USD/tấn CFR Manila nhưng chưa được xác nhận. Một thương nhân nghe được chào giá từ Trung Quốc cho lô hàng giao tháng 7 tại mức thấp trên nhưng chưa hiểu có chốt chưa.
Một thương nhân Trung Quốc cho biết, mức 420 USD/tấn CFR Manila là không thể vì các nhà cung cấp chào trên 430 USD/tấn FOB cho phôi thanh Q255 150mm. Phôi thanh Q275 150mm khối lượng nhỏ được đặt mua tại mức 430 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong ngày thứ tư và thứ năm.
Còn nhiều lô hàng khác được chào ở Manila cùng thời điểm trong khi sức mua chậm chạp vì mùa mưa. Phôi thanh 100/150mm Nga được chào tại mức 420 USD/tấn CFR Manila, không đổi so với tuần trước đó. Các thương nhân nhấn mạnh rằng thuế nhập khẩu cho phôi thanh Nga sẽ sớm xuống mức 0 trong tháng này từ mức 3% trước đó.
Tại Indonesia, các nguồn tin nghe có lô hàng phôi thanh 25.000 tấn từ Bahrain Ấn Độ hoặc Nga tại mức 415 USD/tấn CFR. Lô hàng gần đây nhất là giao đầu tháng 8, được cho là quá lâu. Nhu cầu tiêu thụ suy yếu do lễ Ramadan. Phôi thanh Thái Lan và Việt Nam được chào tại mức 425 USD/tấn CFR Indonesia.
Tuy nhiên, tại Thái Lan, các nhà máy tăng giá chào lên 425 USD/tấn FOB trong khi giá phế nội địa tăng.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá nhập khẩu phôi thanh 120/130mm vào Đông Á lên 415-420 USD/tấn CFR Đông Á, so với mức 410-420 USD/tấn cfr tuần trước. Giá trung bình tăng 2.50 USD/tấn, lên mức 417.50 USD/tấn.