Thị trường phế Mỹ trầm lắng
Các cuộc đàm phán vẫn đang diễn ra vào cuối ngày thứ Sáu trong một thị trường phế Mỹ tháng 3 vẫn còn hay thay đổi mà cho thấy giá đã bốc hơi một phần. Giá phế prime có xu hướng lên 60 USD/lt và loại obsolete lên 40 USD/lt trong đầu phiên giao dịch ở khắp khu vực Midwest nhưng các nhà máy đã kéo trở lại vào cuối ngày. Thị trường Đông Nam chậm hơn để thống nhất giá khi các đại lý và các nhà cung cấp vẫn còn bế tắc với khoảng cách 10 USD/lt.
Giá phế Prime phục hồi nhiều hơn, vẫn đang được giao dịch ở mức cao từ 400- 410 USD/lt giao tới nhà máy ở trong và xung quanh Ohio. Phế vụn được giao dịch trong phạm vi 320- 330 USD/lt phân phối trong vùng Midwest nhưng các nguồn tin chỉ ra rằng mức giá 330 USD/lt không còn có thể đạt được vào cuối ngày thứ Sáu.
Platts định giá phế vụn Mỹ Midwest ở mức 320- 325 USD/lt giao tới nhà máy, tăng 35 USD/lt kể từ các giao dịch giao tháng Hai.
Nguồn cung phế vụn tăng được dàn xếp bởi các nhà xuất khẩu Bờ Đông Hoa Kỳ để bán vào trong vùng nội địa.
Ở khu vực Đông Nam, các nhà máy và đại lý vẫn còn bị bế tắc trong các cuộc đàm phán vào cuối ngày thứ Sáu.
"Vẫn chưa có giao dịch nào – khoảng cách giữa giá mua và bán hiện nay đang là 10 USD cho phế vụn", một nhà cung cấp ở khu vực Đông Nam cho biết.
Việc khôi phục sản xuất quặng sắt hoàn nguyên trực tiếp trong tuần này tại cơ sở của Nucor ở Louisiana cùng với việc bảo trì tại nhà máy thép tấm SSAB ảnh hưởng đến thị trường.
SSAB thông báo bãi phế liệu Alabama của công ty sẽ hoạt động với tốc độ giảm dần bắt đầu từ 07 tháng 3 và 06 tháng 3 sẽ là ngày cuối cùng để nhận phế giao bằng xe tải. Việc gián đoạn thu mua phế của nhà máy liên quan đến việc bảo trì trên diện rộng 24 ngày bắt đầu ngày 20/3. Các đại lý bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa này cho biết đang nhận được đề nghị từ các nhà máy cạnh tranh có giá thấp chỉ có 20 USD/lt cho loại obsolete.
Giá phế tuần 09/2017
Turkish scrap import prices rose in the week to Friday, March 3, as quiet demand early on hotted up by Thursday and Friday.
Giá nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong tuần tính đến ngày 3 tháng 3, do nhu cầu yên ắng trước đó đã tăng nhiệt trong 2 ngày cuối tuần.
Định giá của Platts cho phế nhập khẩu HMS I/I (80:20) Thổ Nhĩ Kỳ tăng 5,5usd/tấn vào thứ Sáu tuần trước lên mức 288usd/tấn CFR.
Tâm lý tích cực đã được hỗ trợ bởi một thị trường nội địa Mỹ mạnh mẽ, đã cho rằng các nhà xuất khẩu của Mỹ đã vắng mặt trong tuần này. Theo các nguồn tin ngày thứ Sáu cho thấy giá lên tới 290usd/tấn CFR, trong khi một đặt mua ở vùng Baltic cho HMS I/II 95: 5 nghe nói vào tối thứ Năm có giá 280 usd/tấn.
Giá phế trong nước của Nhật đã tăng, nhưng đặt mua xuất khẩu bị đình trệ do chênh lệch giá giữa các thương nhân và người mua Nhật Bản.
Hyundai Steel của Hàn Quốc đã không bỏ thầu (trong tuần lễ tính đến ngày 20 tháng 2) tuần thứ hai liên tiếp. Tuy nhiên, nhà máy này đã mua H2 ở mức 280.000 yên/tấn (245 usd/tấn) thông qua các cuộc đàm phán tư nhân trong tuần trước đó (ngày 13 tháng 2), một nguồn tin thân cận với công ty cho biết.
Một nhà máy khác của Hàn Quốc, Dongkuk Steel, đã đặt giá thầu hôm thứ Ba với giá là 30.000 yên/tấn CFR cho H2, tương đương với mức 27.500 Yên/tấn FOB với chi phí vận chuyển cố định là 2.500 Yên/tấn. Tuy nhiên, không thể đặt mua được do sự phản kháng của các nhà cung cấp Nhật Bản, các nguồn tin thân cận với công ty cho biết.
Các nhà thương mại Nhật đang nhắm mục tiêu 29.000 yên/tấn FOB cho H2 xuất khẩu, giảm từ mức 29.000-29.500 yên/tấn FOB tuần trước đó. Họ đã phải trả 27.000-27.500 yên/tấn FAS để thu mua H2 xuất khẩu từ phía đông Nhật Bản, tăng 500 – 1.000 Yên/tấn so với tuần trước đó.
Về xuất khẩu phế của Nhật đến các khu vực khác (ngoài Hàn Quốc), một nhà máy Đài Loan đã đặt mua H2 với giá 278usd/tấn CFR hôm 25/02, tương đương với 28.600 yên/tấn FOB.
Các nhà máy Việt Nam đang tìm mua H2 Nhật Bản với giá khoảng 278-280usd/tấn CFR, cao hơn 5usd so với đặt mua trước đó hai tuần, nhưng không có hợp đồng nào được xác nhận.
Tại Nhật, nhà máy mini hàng đầu Tokyo Steel Manufacturing nâng giá mua phế trong nước vào ngày 4 tháng 3, đánh dấu đợt tăng thứ hai trong tuần. Giá mua phế liệu H2 tại nhà máy Utsunomiya ở phía bắc Tokyo đã là 28.500 yên/tấn tăng 500 yên/tấn.
Platts định giá xuất khẩu phế H2 là 28.500-29.000 yên/tấn FOB Tokyo Bay thứ Tư, không đổi so với tuần trước.
Thị trường phế HMS ở khu vực Đông Á yên tĩnh và không có đơn đặt hàng, các nguồn tin thương mại khu vực cho biết.
Họ nói rằng các nhà máy ở Hàn Quốc và Việt Nam đang quan sát những chuyển động giá trước khi thực hiện bất kỳ đặt mua nào do thị trường toàn cầu đang tăng nhanh chóng.
Các nguồn tin cho biết chào giá bulk HMS I/II 80:20 vẫn còn phổ biến ở mức khoảng 295-305usd/tấn CFR cho các nhà máy ở khu vực Đông Á, không đổi so với tuần trước. Trong khi đó, các nhà máy khu vực vẫn đang tìm cách đặt mua khoảng 275-280usd/tấn CFR.
Các nguồn tin thương mại ở Hàn Quốc và Việt Nam cho biết các nhà máy đã đảm bảo đủ phế cho đến sản xuất tháng 4, hoặc thậm chí tháng 5 đối với một số doanh nghiệp Việt Nam.
Tại Hàn Quốc, các nhà máy vẫn còn do dự khi đặt mua số lượng lớn HMS do giá chào bán cao, theo các nguồn tin. Thay vào đó, Hyundai Steel đã đặt mua A3 với giá 279usd/tấn CFR trong tuần lễ 20/2, tăng 7 usd so với giá CFR của Dongkuk cũng cho A3 trong tuần trước đó, các nguồn thương mại của Hàn Quốc cho biết.
Tổng lượng hàng tồn kho phế tại cácnhà máy EAF Hàn Quốc vẫn ở mức 1.141 triệu tấn, không thay đổi so với tuần trước, nguồn tin thương mại cho biết.
Hôm thứ Tư, Platts đã duy trì giá phế liệu HMS I/II 80:20 ở Đông Á là 285,50usd/tấn CFR với mức trung bình 287,50 usd/tấn CFR.
Định giá HRC EU
Platts duy trì định giá thép cuộn cán nóng ở Bắc Âu là 570-575 euro/tấn (601.47-606,75usd/tấn) xuất xưởng Ruhr hôm 03/03.
Các nguồn tin mua và bán ở Bắc Âu cho biết giao dịch vẫn ở mức 575 euro/tấn với thời gian giao hàng kéo dài cho đến cuối tháng 4/đầu tháng 5 đối với một số nhà sản xuất. Những người khác đã bán hầu hết lượng hàng sẵn có của họ trong quý 2.
Một nhà kinh doanh ghi nhận các chào bán từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ với giá 530 euro/tấn CIF Antwerp, gần như bằng với giá chào của Italy là 520-530 euro/tấn CIF.
Các nhà máy ở Italy đã chào bán với giá 560 euro/tấn giao cuối tháng 4, một khách hàng của trung tâm dịch vụ Đức cho biết.
Các nguồn tin của Đông Âu ghi nhận mức 550-560 euro/tấn đã giao như là mức giá thị trường, nhưng các nhà máy đó được nghe nói có giá bằng với định giá của Platts ở Bắc Âu.
Thị trường thiếu vắng nhu cầu cho thép tấm, hoạt động giới hạn tiếp tục
Thị trường thép tấm Bắc Âu có xu hướng đi ngang trong tuần lễ tính đến ngày 03/03, do nhu cầu trì trệ trong bối cảnh tồn kho dồi dào.
Các nguồn tin cho biết các nhà tích trữ vẫn đang có thể chờ đợi do hàng tồn kho đã đủ vì nhiều người đã tăng tích trữ nhiều hơn mức bình thường trong tháng Một. Người mua cuối đã phần lớn đã đảm bảo được nhu cầu của họ, trong khi các doanh nghiệp trong nước vẫn duy trì giá cả.
Một thương nhân người Đức nói: "Các nhà máy đang cố gắng không ngừng giữ giá," điều này tương đối mang tính "tâm lý" hơn là phản ánh giá giao dịch thị trường. Các nhà máy Đức vẫn được nghe nói đang chào bán 650euro/tấn trở lên, trong khi hầu hết các nguồn tin đưa thị trường ở mức 570-580euro/tấn xuất xưởng.
Các nguồn tin cho biết, vẫn có thể mua nguyên liệu giá rẻ hơn từ Trung Âu hoặc Italy, mặc dù một nhà cán lại của Italy tăng giá 10 euro/tấn.
Hầu hết những người tham gia thị trường cho rằng tình hình hiện tại sẽ tiếp diễn trong vài tuần tới với giá cả ổn định.
Nhập khẩu từ Ukraina vẫn còn và chào giá với mức khoảng 540 euro/tấn xuất kho ở Antwerp. "Họ đang chào bán và rất cạnh tranh," một người mua châu Âu cho biết. Nhập khẩu cho loại S235 là khan hiếm, trong các chào giá được nghe nói là cho S355.
Thị trường nhập khẩu có thể thấy những động lực mới từ Ấn Độ khi một nhà kinh doanh Đức dự kiến các nhà máy của nước này sẽ trở lại với những chào bán mới do giá nội địa cao hơn. Tuy nhiên, các nhà máy Ấn Độ đã được nghe đã được đặt mua hàng cho đến tháng Tư.
Platts duy trì giá hàng tuần ổn định cho S235 ở mức 575 euro/xuất xưởng Ruhr. Phạm vi giá nhập khẩu vẫn ổn định ở mức 530-540 euro/tấn CIF Antwerp.
Chênh lệch nới rộng ra giữa giá xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ/Ấn Độ
Theo các nguồn tin công nghiệp, do chào giá xuất khẩu và nội địa HDG của các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng hơn nữa hôm thứ Sáu, khoảng cách giữa chào giá xuất khẩu HDG của Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đến châu Âu đã đạt 50 usd/tấn.
Một nhà sản xuất thép cuộn cán nguội ở Marmara đã nâng mức giá xuất khẩu HDG và giá niêm yết trong nước lên 15usd/tấn hôm thứ Sáu, mức tăng lần thứ hai trong một tuần, các nguồn tin thị trường và nguồn tin công ty xác nhận. Hai đợt tăng trong giá niêm yết HDG tổng cộng là 40usd/tấn.
"Chúng tôi đã nhận được một giá niêm yết mới với mức giá cao hơn từ một nhà sản xuất lớn có trụ sở trong khu vực của chúng tôi vào sáng nay. Các chào giá mới của họ ngày hôm nay tăng 15usd/tấn," một giám đốc trung tâm dịch vụ cho hay. Tuy nhiên, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã bán được một lượng háng đáng kể, đặc biệt là châu Âu trong những tuần gần đây, và những đơn đặt hàng của họ đã đầy. Mức tăng giá này dựa trên tình huống này."
Nguồn tin cho biết một nhà phân phối lớn ở Tây Âu đã nói với ông trước đó rằng "với mức tăng này trong giá chào của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng cách giữa các nhà máy Ấn Độ và chào giá của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt đến 50-60usd/tấn. Các nhà máy Ấn Độ có thể tăng thị phần đáng kể trong những trường hợp này. "
Trong khi đó, một chuyên gia xuất khẩu tại nhà sản xuất lớn trong nước này cũng xác nhận hai lần tăng trong giá niêm yết đạt tổng cộng 40usd/tấn, cho biết động thái này "chủ yếu phản ánh các đơn đặt hàng của chúng tôi đã đủ, do đơn đặt hàng xuất khẩu đáng kể và chi phí gia tăng của chúng tôi."
Nguồn tin cho biết: "Chúng tôi biết, những đợt tăng giá này có thể hạn chế xuất khẩu sang châu Âu trong những ngày tới, vì khoảng cách giữa chào giá của chúng tôi và các doanh nghiệp Ấn Độ mở rộng ra. "Tuy nhiên, chúng tôi có thể xem xét để điều chỉnh giá của chúng tôi trong những tuần tới, tùy thuộc vào điều kiện thị trường."
Các nguồn tin cho biết phạm vi giá chào HDG 0.5mm của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường nội địa đã thu hẹp còn mức 740-750 usd/tấn hôm thứ Sáu với mức tăng gần đây, trong khi đó, giá chào xuất khẩu của họ chỉ thấp hơn khoảng 10usd/tấn. Các nhà sản xuất cuộn mạ khác của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang chuẩn bị tăng giá niêm yết trong tuần tới.
Giá chào thép cuộn cán nóng của Thổ Nhĩ Kỳ trên thị trường nội địa vào khoảng 540-550usd/tấn hôm thứ Sáu, trong khi giá chào xuất khẩu ở mức 525 – 535usd/tấn FOB. Tuy nhiên, một nhà sản xuất lớn trong nước dự kiến sẽ mở bán đặt với giá niêm yết cao hơn vào thứ Hai, nguồn tin cho biết.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ là 432,50usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ vào thứ Sáu, ổn định từ thứ Năm.
Một nhà sản xuất mô tả thị trường là "rất yên tĩnh" với việc không mức tăng giá nào hơn nữa mặc dù giá phế và phôi thanh tăng mạnh. Ông khẳng định chào giá đến Mỹ vẫn 500usd/tấn trọng lượng lý thuyết CFR Houston, mặc dù không rõ mức này có thể đạt được hay không tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường nội địa Mỹ.
Nguồn tin nhà máy ước tính khoảng 450usd/tấn FOB trong ngắn hạn và nghi ngờ việc các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đồng ý bán với giá 430usd/tấn FOB.
Một nhà kinh doanh tại châu Âu nói rằng sẽ không mức tăng nào được chấp nhận với thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ vì những chào giá hấp dẫn của địa phương. Ông đã cho biết một đơn chào hàng mới được đưa ra từ một nhà máy của EU với giá xuất xưởng là 430-435euro/tấn (454-459usd), tương đương với nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm cả cước vận chuyển đường biển và các khoản phí bổ sung.
ArcelorMittal nhắm mục tiêu tăng giá mới với thép dài
ArcelorMittal đã đề nghị mạng lưới bán hàng của công ty này tăng giá các mặt hàng thép dài châu Âu, chủ yếu là với các hợp đồng tháng và quý. Họ nói rằng mức tăng này tổng cộng 50 euro/tấn (52,76usd/tấn), sẽ được thực hiện vào cuối tháng 4.
Tâm lý tích cực và chi phí nguyên thô tăng, cũng như nhu cầu tiêu thụ liên quan đến hoạt động xây dựng theo mùa, thúc đẩy giá tăng. Các nguồn tin cho hay, các nhà tích trữ của châu Âu đã giảm lượng hàng tồn kho và sẽ phải tái tích trữ.
ArcelorMittal từ chối bình luận cụ thể về việc tăng thép dài.
Các hợp đồng mua phế hàng tháng vẫn đang được đàm phán, nhưng thị trường nói chúng cho rằng giá sẽ tăng 30 €/tấn trong tháng này. Một số nguồn tin hoài nghi hơn, tuy nhiên, nói rằng mức tăng của phế sẽ ít hơn, vì như một nguồn tin cho biết "thị trường Thổ Nhĩ Kỳ đã chậm lại."
Tuy nhiên, một số người mua thép dài thừa nhận có cơ hội cho giá thành phẩm tăng, đặc biệt đối với các sản phẩm như cuộn trơn và thép cây. Chào giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ là 470-480usd/tấn FOB tại cảng Thổ Nhĩ Kỳ và thép cây là 455-465usd/tấn FOB. Theo một số nhà nhập khẩu, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang cân nhắc tăng giá.
Theo các nguồn tin, giá cuộn trơn của châu Âu dao động ở mức 450-460€ /tấn (475.03-485.59usd/tấn) đã giao Bắc Âu, trong khi thép hình loại 01 là khoảng 510-520€/tấn đã giao. Giá bán thanh thương phẩm khoảng 50-60€ /tấn được phân phối chủ yếu ở châu Âu, trong khi thép cây ở mức 190€/tấn được phân phối ở Pháp, 140 €/tấn ở Italy và 220-230€ /tấn đã giao tại Đức.
Thép dài Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng do đồng lira mất giá
Các nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ đã đẩy giá niêm yết tăng hơn nữa hôm thứ Sáu tuần trước lần tăng thứ hai liên tiếp trong vòng một tuần, chủ yếu là do sự sụt giảm giá của đồng lira.
Nhà sản xuất thép dài Icdas ở Marmara Icdas tái mở bán hôm thứ Sáu với mức giá cao hơn ngày thứ hai liên tiếp. Giá thép cây 12-32mm tăng 30 TRY/tấn (8usd/tấn) lên 1.930 TRY/tấn cho Istanbul, và 1.910 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga, Canakkale. Giá của Icdas bao gồm 18% VAT và tương ứng mức 439usd/ tấn và 434 usd/tấn, không bao gồm VAT.
Icdas đã tăng giá thép cây 10mm một khoảng tương tự lên mức 1.940 TRY/tấn xuất xưởng thứ Năm, trong khi thép cây 8mm đã tăng lên mức 1.950 TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul.
Giá niêm yết cuộn trơn 7-8,5 mm của công ty này cũng tăng 1 khóng tương tự lên mức 2.090-2.120 TRY/tấn xuất xưởng (đã bao gồm VAT) tính đến ngày 03/03.
Một nhà sản xuất lớn khác, Bastug Metalurji, có trụ sở tại Osmaniye, miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tăng giá niêm yết thêm mình 30 TRY/tấn (8usd/tấn) hôm thứ Sáu lần tăng thứ hai trong một tuần. Với mức tăng mới nhất này, giá niêm yết của thép cây 12-32mm ở mức 1.910 TRY/tấn xuất xưởng. Giá thép cây 10mm đạt mức 1.920 TRY/tấn xuất xưởng, trong khi thép cây 8mm là 1.930 TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT.
Nhà sản xuất tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, trong khi đó, đã chốt bán thép cây và thép profile hôm thứ Sáu. Công ty dự kiến sẽ tái mở bán đơn hàng mới với giá cao hơn trong những ngày tới.
Giá thép cuộn HRC CIS tăng nhẹ, phôi phiến duy trì ổn định
Các nhà máy của CIS đã chốt một số giá bán thép cuộn cán nóng ở mức bắt đầu từ 490usd/tấn FOB Biển Đen, theo nhiều nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
Một nhà kinh doanh ở châu Âu cho biết ông đã mua HRC loại nhẹ hơn của Nga, thường được giao dịch với mức chênh lệch giảm so với các loại thép cuộn trọng lượng nặng hơn, với giá 490usd/tấn FOB. " Thép cuộn lớn đang được giao dịch với giá 495-500usd/tấn FOB," nhà kinh doanh này cho biết.
Một thương nhân khác làm việc với khu vực Bắc Phi và Trung Đông cho biết ông đã đặt mua một ít HRC với giá 520usd/tấn CFR và cũng mua một lượng nhỏ cuộn cán nguội với giá 570usd/tấn CFR đến Bắc Phi. Ước tính theo giá FOB Biển Đen là 500usd/tấn và 550usd/tấn tương ứng, nhưng không phản ánh giá cho các đơn đặt hàng quy mô lớn hơn.
"Nếu bạn kết hợp khối lượng cho một vài người mua và đặt đơn hàng lớn hơn, bạn sẽ được chiết khấu," nhà kinh doanh này lưu ý. "Giá HRC FOB Biển Đen vẫn thấp hơn 500usd/tấn. Xu hướng dường như là có tăng lên nếu bạn nhìn vào các chào bán nhưng thực tế nó vẫn ổn định," ông nói thêm.
Vào thứ 6, 03/03 Platts nâng định giá HRC hàng ngày lên 490-495usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 5,50usd/tấn. Giá CRC không đổi ở mức 545-555usd/tấn FOB.
Về phía phôi phiến, các chào hàng mới vẫn nằm trong phạm vi 415-420 usd/tấn FOB Biển Đen, với giá chốt các giao dịch dưới mốc 415usd/tấn FOB. Định giá hàng tuần của Platts cho phôi phiến CIS vẫn ổn định ở mức 410-420usd/tấn FOB Biển Đen.
Định giá phôi thanh CIS
Platts duy trì định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 405usd/tấn FOB Biển Đen thứ sáu, ổn định trong ngày.
Một nhà máy mini Ukraina được biết đang chào giá 405usd/tấn FOB Mariupol thanh toán trước. Nhà máy này đã từ chối giá hỏi mua ở mức 395usd/tấn FOB và 397usd/tấn FOB, và vẫn đang nhắm bán 10.000 tấn sãn xuất cho tháng Ba ở mức giá cao hơn, một nguồn tin nhà máy cho biết. Người mua Thổ Nhĩ Kỳ được biết đang chào giá từ CIS ở mức 410usd/tấn FOB Biển Đen. Nhập khẩu dường như không thu hút, do phôi thnah nội địa được định giá ở mức 410-415usd/tấn xuất xưởng.
Một người mua Ai Cập cho biết đã không nhìn thấy giá chào của CIS thấp hơn 405usd/tấn FOB. Ông ước tính mức giá khả thi tối đa chọ thị trường Ai Cập là khoảng 425usd/tấn CFR Damietta, tương đương 400-405usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azaov.
Thị trường tấm mỏng Mỹ chờ đợi giá chốt của phế
Sự phát triển của giá phế tiếp tục là điều mà nhiều người trong thị trường tấm mỏng Mỹ chú ý tới trước bất kỳ những hoạt động thu mua mới nào, các nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu tuần trước.
Đàm phán giá phế tháng 3 đang diễn ra nhưng thị trường đã cho thấy dấu hiệu hụt hơi. Giá phế prime tăng 60usd/lt và các loại phế obsolete đã tăng 40usd/tấn trong phiên giao dịch sớm ở vùng Trung Tây nhưng các nhà máy đã rút lại giá chào mua vào cuối ngày thứ Sáu.
Theo những người mua, giá phế tăng dường như sẽ thúc đẩy một đợt tăng giá tấm mỏng khác. Bất chấp các vòng đàm phán vẫn còn hạn chế với các nhà máy cho giao dịch giao ngay mới, một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết ông đã ấn tưỡng với số lượng đơn hàng khối lượng nhỏ hơn của cuộn cán nóng ở mức 640usd/st.Ông dự đoán một đợt tăng giá mới có thể đẩy giá lên đến 680usd/st, nếu được thông báo.
Sản lượng HRC tháng 4 đã không được báo giá tích cực, theo một nguồn tin nhà máy mà công ty của người này mà đang chờ đợi xem thị trường phế chốt giá như thế nào.
Giá HRC mới của đang ở mức 620-640usd/st, trong khi giá thép cuộn cán nguội và thép cuộn mạ là 840usd/st, theo nguồn tin từ trung tâm dịch vụ thứ hai.
Việc tăng giá tấm mỏng dự kiến sẽ diễn 30-60 ngày tới đã khiến nhiều người mua phải rút lui khỏi các hợp đồng vị thế, một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ ba lưu ý. Những người mua với hợp đồng tháng đang trì trệ sẽ thấy tốt nhất là tăng khối lượng theo thỏa thuận hợp đồng thay vì tìm nguồn hàng giao ngay do giá tăng.
Platts duy trì định giá HRC và CRC ở mức 620-640usd/st và 820-840usd/tấn. Cả hai giá đều được chuẩn hóa theo cơ sở xuất khẩu của Midwest (Indiana).
Biên lợi nhuận sản xuất thép cao hỗ trợ cho thị trường quặng sắt
Biên lợi nhuận ngành thép tăng đã hỗ trợ nhu cầu quặng sắt nhập khẩu trong tuần trước, làm giá lên cao hơn một chút so với tuần trước đó.
Platts định giá 62% Fe Iron Ore Index(IODEX) tại mức 91,45 USD/dmt CFR Bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu, giảm 1 USD/dmt so với ngày thứ Năm nhưng tăng 85 cent so với thứ Sáu tuần trước.
Với việc cắt giảm hoạt động thiêu kết đang diễn ra tại Đường Sơn, nhiều nguồn tin thị trường cho biết giá thép sẽ được hỗ trợ trong trung hạn và có rất ít khả năng giá quặng sắt sẽ giảm mạnh do biên lợi nhuận của các nhà máy còn cao.
"Nguồn cung thép đã bị thắt chặt và nhu cầu không đổi hoặc được thúc đẩy bởi sự khởi xướng cơ sở hạ tầng của chính phủ, và điều đó đang quay sang hỗ trợ cho lợi nhuận và đẩy giá nguyên liệu lên", một thương nhân quốc tế cho biết.
Trong khi đó, các nguồn tin đang đợi sự rõ ràng hơn nữa về việc cắt giảm công suất thép và những khởi xướng của chính phủ mà có thể thúc đẩy nhu cầu thép, sẽ được công bố trong cuộc họp 10 ngày của Ủy ban Cải cách và phát triển quốc gia bắt đầu từ thứ Sáu.
Nguồn hàng sẵn có và rẻ hơn tại các cảng đang làm kìm hãm nhu cầu quặng sắt nhập khẩu. "Với mức giá nhập khẩu thay vào đó, chúng tôi sẽ mua nguyên liệu tại cảng - không cần phải trả thêm tiền cho các lô hàng đi bằng đường biển", một nguồn nhà máy ở miền đôngTrung Quốc cho biết.
Mặc dù cắt giảm hoạt động thiêu kết ở Đường Sơn, nhưng nhu cầu cho quặng cục nhập khẩu vẫn còn chậm chạp trong bối cảnh bùng nổ hàng tồn kho tại cảng. "Người mua không sẵn sàng mua các lô quặng nhập khẩu, vì họ có thể mua rẻ hơn tại các cảng Trung Quốc", một thương nhân quốc tế cho biết.
Platts định giá quặng cục giao ngay ở mức 0,05 USD/dmt hôm thứ Tư, giảm 0,002 USD/dmt so với tuần trước.
Giá thép không gỉ châu Á ổn định khi giá niken không rõ ràng
Platts định giá châu Á cho CRC không gỉ 304 2mm 2B có nguồn gốc từ Đài Loan và Hàn Quốc ổn định ở mức 2.280-2.320 USD/tấn trong tuần trước, phản ánh sự không rõ ràng của thị trường về định hướng tương lai của giá niken.
Các giao dịch được nghe nói cho CRC của Đài Loan với giá 2.280-2.300 USD/tấn CFR trong tuần trước. Một số giao dịch được thực hiện giữa một số đối tác lâu năm với giá thấp 2.250 USD/tấn CFR. Trong khi đó, giá có thể giao dịch cho CRC Hàn Quốc đã được nghe nói ở khoảng 2.320 USD/tấn CFR tính tới thứ Sáu, nguồn tin cho biết.
Giá xuất khẩu của Trung Quốc hầu như là giữ ổn định trong tuần qua. Chào giá khoảng 2.200 USD/tấn FOB tính tới thứ Sáu tuần trước, nhưng một số thương nhân đã hạ chào giá trong tuần để phản ánh một sự sụt giảm trên thị trường trong nước, một nhà kinh doanh ở miền nam Trung Quốc cho biết. Nhưng triển vọng thị trường vẫn tích cực cho tháng ba, đặc biệt là sau khi giá niken tăng trở lại vào cuối tuần.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange đứng ở mức 10.895-10.900 USD/tấn vào ngày 2 tháng 3, tăng khoảng 264 USD/tấn từ một tuần trước đó.
Thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc tăng cùng với giá thép tròn đặc
Thị trường giao ngay cho ống đúc ở miền đông Trung Quốc tiếp tục xu hướng đi lên trong tuần kết thúc vào ngày 3/3, cùng với giá thép tròn đặc đắt đỏ hơn. Các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn trong khu vực này đã thông báo họ sẽ nâng giá nguyên liệu này trong 10 ngày đầu tháng 3 lên 130 NDT/tấn (19 USD/tấn).
Hôm 01/3, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel – hai nhà sản xuất lớn tại tỉnh Giang Tô – đã tăng giá thép tròn đặc 20 # 50-130mm thêm 60 NDT/tấn lên lần lượt 4.060 NDT/tấn và 4.010 NDT/tấn, cho đầu tháng 3, giá xuất xưởng bao gồm thuế GTGT, sau khi tăng 100 NDT/tấn vào cuối tháng Hai.
Cùng ngày, một nhà cung cấp thép tròn đặc lớn khác là Huaigang Special Steel, cũng ở Giang Tô - cho biết sẽ nâng giá xuất xưởng cho thép tròn đặc thêm 130 NDT/tấn lên 4110 NDT/tấn gồm thuế GTGT, trong cùng thời gian này. Nhà máy này đã nâng giá lên 100 NDT/tấn vào cuối tháng hai.
Tính đến thứ Sáu, chào giá phổ biến trên thị trường bán lẻ của Thượng Hải cho ống đúc loại 20 # 219x6mm (GB / T 8163) từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã tăng mạnh thêm 100 NDT/tấn so với mức cuối tháng 1 lên khoảng 4450 NDT/tấn xuất xưởng và bao gồm 17% VAT, so với 4.300-4.400 /NDT/tấn cách đây nửa tháng trước.
Thép cây châu Á ổn định khi người mua nấn ná
Giá giao ngay của thép cây được giao dịch trong khu vực châu Á trong tuần trước không thay đổi khi người mua không có ý định đặt mua thép với giá cao hơn của Trung Quốc. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm tại mức 445-447 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với hôm thứ Năm.
Hầu hết các nhà máy Trung Quốc hoặc là giữ giá cao hoặc từ chối cung cấp chào giá hôm thứ Sáu, vì họ cho rằng giá trong nước đã mạnh hơn rất nhiều.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc vẫn duy trì chào giá ở mức 470 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương với 485 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, với dung sai khối lượng 3%. Cùng một đó một nhà máy thứ hai trong khu vực báo giá 480 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. "Thật vô ích để chào giá vì không có ai quan tâm hết do giá thấp hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ," một nhà máy ở miền đông Trung Quốc cho biết hôm thứ Sáu.
Một số thương nhân Trung Quốc báo giá 465-475 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (tương đương 456-466 USD/tấn FOB giả định phí vận chuyển 9 USD/tấn) hôm thứ Sáu, nhưng mức giá này vẫn không hấp dẫn cho người mua ở đó. Thay vào đó, người mua ở Hong Kong sẽ cân nhắc mua thép thanh của Thổ Nhĩ Kỳ với giá thấp hơn.
Một thương nhân ở Singapore cho biết hôm thứ Sáu rằng một số thương nhân Trung Quốc đã báo giá thấp 460-465 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 459-464 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và 3% dung sai khối lượng. Tuy nhiên, vẫn không hấp dẫn người mua và họ muốn chờ đợi để xu hướng rõ ràng hơn, ông nói thêm.
Thép của Thổ Nhĩ Kỳ được chào giá khoảng 465 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết hoặc thấp hơn, nguồn tin thị trường cho biết.
Giá HRC Châu Á không thay đổi trong bối cảnh tâm lý trái chiều
Giá giao ngay của HRC được giao dịch tại châu Á được duy trì ổn định trong ngày thứ tư liên tiếp hôm thứ sáu, mặc dù giá tại Trung Quốc giảm do giá giao sau giảm. Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 507-515 USD/tấn FOB Trung Quốc, bằng với ngày trước đó.
Thép cuộn cùng loại được đánh giá ở mức 515-523 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 2 USD/tấn so với tuần trước đó. Tại thị trường bán sỉ của Thượng Hải cùng ngày, HRC Q235 5.5mm được định giá ở mức 3.730-3.750 NDT/tấn (541-544 USD/tấn ) xuất xưởng với 17% thuế VAT, giảm 45 NDT/tấn.
Một vài nhà máy Trung Quốc đang chào bán ở mức 515-520 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400 hôm thứ Sáu, một thương nhân cho biết sức mua chậm lại khi giá trong nước suy yếu vào cuối tuần. Tuy nhiên, nhu cầu từ Hàn Quốc được mô tả là "không tồi" bởi các nguồn trong tuần kết thúc ngày 26 tháng 2, bởi vì nguồn cung HRC trong nước bị hạn chế do một số nhà máy lên kế hoạch bảo trì. Hầu hết người mua Hàn Quốc đã sẵn sàng thu mua HRC SS400 với giá 505-510 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tuy nhiên, liên quan đến Việt Nam, vẫn còn khó để người bán xuất khẩu HRC Trung Quốc tới đó khi chào giá Ấn Độ thấp chỉ có 505-508 USD/tấn CFR Việt Nam cho cuộn SAE. Mức giá thấp hơn chào giá 540-555 USD/tấn CFR Việt Nam của Trung Quốc. Trong khi đó, nghe nói một nhà máy của Nga đã chào giá 504-535 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một số người trên thị trường nghĩ rằng giá xuất khẩu của Trung Quốc sẽ ổn định hoặc giảm một chút trong tương lai gần do sức mua ít, đặc biệt là từ Việt Nam. Nhưng những người khác tỏ ra lạc quan hơn, nói rằng vẫn có nhu cầu từ các vùng khác và các nhà máy Trung Quốc sẽ cố giữ chào giá của họ khi khối lượng giao dịch trong nước vẫn còn mạnh.
Giá phôi thép tiếp tục tăng ở Đông Nam Á khi chào giá Trung Quốc không cạnh tranh
Giá nhập khẩu phôi thép tại khu vực Đông Nam Á tiếp tục tăng trong tuần trước khi người mua ở Philippines đã chấp nhận mức giá cao hơn cho nguyên liệu không phải của Trung Quốc. Chào giá của Trung Quốc vẫn được xem là không cạnh tranh.
Vào ngày thứ Sáu, S&P Global Platts định giá hàng tuần cho phôi thanh 120/130mm ở mức 445- 450 USD/tấn CFR Đông Á, tăng từ 430- 440 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 447,50 USD/tấn là cao hơn tuần trước đó 12,50 USD/tấn.
Hồi đầu tuần trước, tại Manila, 20.000 tấn phôi thép 125mm từ Nga đã được nghe nói chốt với giá 440 USD/tấn CFR, và từ Ấn Độ 25.000 tấn phôi thép 130mm với giá 442-444 USD/tấn CFR. Lô hàng của Nga giao tháng 3 và tháng 4, trong khi lô hàng của Ấn Độ là giao tháng tư.
Những lô hàng đặt gần đây đồng nghĩa với giá có hiệu lực khoảng 453,20 USD/tấn CFR cho phôi của Nga (3% thuế nhập khẩu) và khoảng 447 USD/tấn CFR cho phôi thép Ấn Độ (thuế nhập khẩu 1%). Phôi thép của Trung Quốc và từ ASEAN có mức thuế 0% thuế khi vào Philippines.
Người mua ở Philippine đồng ý trả mức giá 450-455 USD/tấn CFR vào ngày thứ Sáu. Phôi thép của Ấn Độ được chào bán với giá 450-460 USD/tấn CFR. Chào giá phôi thép 120/130mm của Trung Quốc đang phổ biến từ 470 USD/tấn CFR trở lên, vì vậy có rất ít đơn đặt hàng trong những tuần gần đây.
Các thương nhân tỏ ra ngạc nhiên trước sự xâm nhập của phôi thép từ Trung Đông. Một lô phôi thép 120mm từ Oman cho lô hàng giao tháng 4 và tháng 5 đã được nghe nói chào giá 444 USD/tấn CFR Manila trong tuần trước.
Tại Thái Lan, thị trường trầm lắng. Các nguồn tin giao dịch của Thái Lan cho biết họ đã không nhìn thấy bất kỳ nguồn phân bổ xuất khẩu mới trong tuần qua. Một thương nhân Thái Lan cho biết, với giá phế đang tăng đáng kể thì doanh thu xuất khẩu là "không khả thi".
Tuy nhiên, phôi thép của Thái đã được nghe nói chào giá 470 USD/tấn CFR Manila trong tuần trước, và giá phôi thép của Thái được nghe ở mức 455 USD/tấn CFR Manila vào tuần trước.