1. Giá xuất khẩu thép tấm CIS giảm
Giá xuất khẩu thép tấm CIS 7-11/2009 | ©SBB 2009 | |
| Jul 09 | Aug 09 | Sep 09 | Oct 09 | Nov 09* |
FOB $/t | 380 - 450 | 420 - 450 | 410 - 455 | 400 - 450 | 400 - 440 |
Giá xuất khẩu phôi thép từ Nga và Ukraine đã có phần suy yếu.
Cách đây 2 tuần, trước tuần nghỉ lễ Quốc khánh của Trung Quốc, giá vẫn ở mức $430-455/t fob sang các cảng ở Nga, tùy vào cảng và nơi đến. Tuy nhiên, hôm nay, có thương gia đã mua được mức giá $400/t fob. – 1 nhà sản xuất lớn cho biết.
Novolipetsk – Nga đã bán 320,000 tấn thép tấm sản xuất trong tháng 11 cách đây 2 tuần, với mức giá trung bình là $440/t fob từ Biển Đen, và giá khoảng từ 420/t - $455/t fob. Evraz cũng đã bán với giá $410-415/t fob từ Nakhodka và $440-450/t fob từ Baltic sang châu Âu, thông qua việc bán hàng liên công ty, nhưng đã chuyển đổi với lượng thép tấm nhiều hơn.
2. Đa số giá thép tấm, thép thanh xây dựng ở Mỹ và châu Âu đều giảm giá: TSI
Giá tham khảo mới nhất từ TSI cho thấy, giá thép tấm ở Mỹ và Nam Âu đã giảm. Giá thép thanh xây dựng ở châu Âu cũng giảm, nhưng giá thép tấm ở Bắc Âu lại tăng so với đầu tuần.
Giá tham khảo thép tấm ở Mỹ FOB từ nhà máy Tây Trung giảm $12/tấn non còn $618/ tấn non ($681/t). Thời hạn giao hàng thép tấm ở Mỹ trung bình vẫn không thay đổi so với mức tuần trước là 7 tuần.
Thép tấm Nam Âu cũng giảm còn €454/t ($662/t). Thời hạn giao hàng chậm hơn tuần trước, ở mức 6.3 tuần. Giá thép tấm Bắc Âu tăng €9/t so với mức tuần trước, và thời hạn giao hàng trung bình cũng chậm hơn, ở mức 5.7 tuần.
Giá thép thanh xây dựng ở Bắc Âu giảm hơn so với tuần trước, ở mức €351/t ($512/t), và Thời hạn giao hàng trung bình chậm hơn tuần trước, ở mức 3.3 tuần. Giá phôi thép LME trung bình ở Địa Trung Hải trong tuần vừa rồi là $396/t, tăng hơn so với giá thép thanh xây dựng Bắc Âu của TSI là $116/t.
Giá thép thanh xây dựng ở Nam Âu cũng giảm so với mức tuần trước. Giá phôi thép LME trung bình ở Địa Trung Hải giảm $8/t so với tuần trước. Thời hạn giao hàng trung bình đối với thép thanh xây dựng ngắn hơn tuần trước, ở mức 3 tuần.
3. Vale đã đồng thuận ký hợp đồng phôi thép mới với nhà máy Arab Saudi
Nhà sản xuất quặng sắt Brazil – Vale đã ký 1 hợp đồng dài hạn mới với Saudi Basic Industries Corporation (Sabic) để cung cấp trực tiếp phôi thép cho các nhà máy của công ty tại Arab Saudi.
Vale sẽ cung cấp 3.3 triệu tấn/năm đối với phôi thép DR cho Sabic trong 10 năm tới.
Vale chỉ vừa mới đi vào hoạt động nhà máy phôi thép mới công suất 7 tấn/năm – thuộc dự án Itabiritos.
4. Nhập khẩu HRC của Hàn Quốc trong tháng 9 tăng 25% so với tháng trước
Nhập khẩu HRC của Hàn Quốc trong tháng 9 tăng lên 673,000 tấn, tăng 133,000 tấn hay 25% so với tháng 8, và cho đến thời điểm này, con số này đã đạt mức cao nhất trong 1 tháng trong năm 2009. Con số này tăng lên mức kỷ lục mới là do nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng nhưng sản lượng từ các nhà xuất khẩu lâu năm như Brazil và châu Âu cũng tăng đáng kể.
Nhập khẩu HRC trong tháng 9 từ 2 nhà cung cấp lớn của Hàn Quốc - Nhật Bản và Trung Quốc – tăng 20% hay 92,800 tấn so với tháng trước lên 534,400 tấn. Tuy nhiên, sản lượng giao hàng HRC xuất xứ Brazil sang Hàn Quốc tăng lên 3 lần, lên khoảng 52,000 tấn so với mức chỉ 16,000 tấn trong tháng 8. Trong năm 2007 và 2008, Hàn Quốc đã không nhập khẩu HRC từ Brazil – theo báo cáo của Hiệp hội sắt thép Hàn Quốc (Kosa).
”HRC Brazil được đặt hàng trong từ tháng 4-5, khi đó giá HRC xuất xứ Trung Quốc là quá cao để nhập khẩu” – 1 thương gia Seoul cho biết. Với Thời hạn giao hàng là 3 tháng, nguồn hàng HRC từ Brazil thường khó hơn nhưng thời hạn giao hàng và giá rất hấp dẫn.
Giá nhập khẩu trung bình đối với HRC xuất xứ Brazil trong tháng 8 và tháng 9 lần lượt là $461/t và $475/t cfr; Trong khi đó, HRC từ Trung Quốc trong những tháng qua lần lượt là $484/t và $516/t cfr.
Trong khi đó, sản lượng HRC châu Âu xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 68% lên 46,900 tấn trong tháng 9 so với mức chỉ 27,200 tấn trong tháng 8. Năm vừa rồi, châu Âu chỉ xuất khẩu 29,600 tấn HRC sang Hàn Quốc.
5. Nhập khẩu ở Mỹ tăng hơn 20%
Nhập khẩu ở Mỹ có thể tăng ít nhất là 20% trong tháng 9 - theo dữ liệu về giấy phép nhập khẩu.
Mức nhập khẩu trong tháng này chiếm tổng số là 1.14 triệu tấn, tăng từ mức 905,000 tấn trong tháng 8, nhưng tổng nhập khẩu thực tế trong tháng 8 chỉ đạt 775,000 tấn.
Canada là nhà phân phối lớn nhất tăng mức nhập khẩu trong tháng 9 là 406,000 tấn, mức cao nhất trong 10 tháng qua, và tăng 50% so với mức nhập khẩu tháng 8 là 270,000 t.
Nhiều hơn là lượng nhập khẩu bán thành phẩm của Canada tăng trong tháng 9, với mức tổng số là 73,000 tấn, tăng từ mức khoảng 3,000 tấn trong tháng 8.
6. OneSteel đã sản xuất 6 triệu tấn quặng sắt trong năm 2009
Mặc dù chỉ mới trải qua 1 quý trong năm tài chính mới, nhưng OneSteel – Úc đã sản xuất 6 triệu tấn quặng sắt trong năm tài chính này (1/7/2009-30/6/2010).
Theo thông báo trong 1 cuộc hội thảo của J.P. Morgan ở Úc vào ngày 6/10, giám đốc điều hành Geoff Plummer của OneSteel đã thông báo rằng công ty sẽ đạt được mục tiêu sản xuất quặng sắt 6 triệu tấn/năm trong năm 2010 – cao hơn 1 triệu tấn so với mức công ty đã sản xuất trong tháng 9/2009.
Nhưng nhu cầu quặng sắt Trung Quốc đã phục hồi trở lại, 1 công ty ở Sydney sẽ bán 80% sản lượng hợp đồng trong năm này – theo như truyền thông Úc đã đưa tin.
7. Thị trường thép lá Thổ Nhĩ Kỳ đang nhận được nhiều chào giá cao hơn đối với HRC nhập khẩu
Các nhà nhập khẩu thép thanh Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận được chào giá mới từ các nhà sản xuất Nga. Giá HRC tăng $10-20/t, nhưng giá CRC vẫn bằng giá so với tuần trước.
HRC từ Nga được chào giá $560/570/t cfr. Giá tuần vừa rồi là $550/t cfr. Một số thương gia đã mua HRC từ Trung Quốc với giá $510-520/t cfr trong tuần vừa rồi. CRC vẫn được chào giá $670/t cfr.
Nhà sản xuất địa phương Erdemir đã nhận đủ đủ đơn đặt hàng cho đến cuối tháng 11, và vẫn không chào hàng bất cứ sản phẩm nào xuất khẩu.
8. Xây dựng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm
Hoạt động xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ giảm 21% cho đến thời điểm này trong nửa cuối năm 2009 so với cùng kỳ 2008. Xây dựng nhà cửa giảm 27.8%, nhưng xây dựng cơ sở hạ tầng tăng 10.4%.
Thị trường thép thanh xây dựng vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề do suy thoái trong các hoạt động xây dựng. Nhu cầu cả ở thị trường xuất khẩu và nội địa đã làm ảnh hưởng đến các nhà cung cấp thép thanh xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ.
1 nhà thầu cho biết, “Điều này có thể làm cho quý 3 có thể suy giảm hơn nữa, nhưng sức ảnh hưởng của nó có thể ít nhất là đến quý 1/2010.”
9. Nhà sản xuất thép thanh Úc bắt đầu hoạt động lò nung mới
Nhà sản xuất thép thanh cuộn Stahl Judenburg đã bắt đầu hoạt động lò nung mới, với số chi phí đầu tư là €9 triệu ($13 triệu).
Lò nung này do Andritz Maerz cung cấp, lò nung mới này sẽ thay thế lò nung cũ đã được lắp đặt cách đây 50 năm. Quyết định này được đưa ra vào năm 2007, và máy móc đã được bảo dưỡng mặc dù do ảnh hưởng của khủng hoảng, nên khi đó dự án này đã bị ngưng lại – theo như giám đốc kinh doanh của công ty Hans Bernhard Zäuner cho biết.
Trong năm 2008, Stahl Judenburg, 1 công ty con của tập đoàn thép Đức - Georgsmarienhütte Holding, đã sản xuất 70,000 tấn các sản phẩm thép thanh, và đạt được doanh thu là €108 triệu. Công ty đã nâng mức sản xuất thép thanh lên từ mức ban đầu là 60% lên mức hiện tại là 85%, nhưng vẫn giữ mức sản xuất thép hình chuyên dụng và thép dây quấn pittong. Mặc dù công ty đã nâng công suất, nhưng sản lượng trong năm hiện tại dự kiến sẽ không vượt mức 55,000 tấn – ông Zäuner cho biết.
10. Giá các sản phẩm thép dài đang giảm ở Bắc Ý
Giá thép thanh cơ khí, thép thanh xây dựng và 1 số loại dầm thép giảm từ 21/9-5/10 ở Brescia, khu vực sản xuất thép chủ yếu ở Bắc Ý – theo số liệu từ Phòng thương mại địa phương.
Theo dữ liệu đưa ra vào ngày 5/10, giá cơ bản thép thanh cơ khí giảm €10/t còn €125-165/t ($195-252/t) tùy vào kích cỡ, và thép thanh xây dựng giảm €20-25/t còn €140-150/t.
Giá cơ bản loại dầm thép IPN vẫn ổn định ở mức €180-246/t tùy vào kích cỡ. Giá dầm thép IPE và HE cũng không thay đổi ở mức €180-231/t tùy vào kích cỡ. Nhưng giá thép rãnh UPN giảm €10/t đối với loại nhỏ còn €155-165/t, loại lớn và trung vẫn ổn định ở mức €180-231/t.
Giá do Phòng thương mại Brescia đưa ra là giá trung bình trong 2 tuần giao dịch. Trong tuần này, giá thép thanh xây dựng cơ bản ở Ý giảm hơn nữa, còn khoảng €130/t do đơn đặt hàng ít.
11. Trung Quốc phản đối EU do thuế bán phá giá thép ống đúc đã bắt đầu có hiệu lực thi hành
Ngày hôm qua, Liên đoàn châu Âu (EU) đã xác nhận rằng EU đã đưa ra quyết định cuối cùng về mức thuế chống bán phá giá đối với thép ống đúc nhập khẩu từ Trung Quốc loại có đường kính 406.4mm. Trung Quốc đã phản đối quyết định này, và đã phát ngôn trên truyền thông rằng EU đã “không giữ danh dự trong cam kết về việc chống chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của mình”.
Mức thuế tạm thời đã đưa ra là kể từ tháng 4. Mức thuế chống bán phá giá cuối cùng là 17.7% đối với thép ống của Shandong Luxing Steel Pipe, và mức thuế 27.2% đối với những công ty khác mà có hợp tác trong cuộc điều tra, và 39.2% đối với tất cả các công ty xuất khẩu khác của Trung Quốc. Mức thuế này có hiệu lực từ ngày 7/10 – theo như thông báo của EU.
Nhập khẩu thép ống của EU từ Trung Quốc tăng từ mức 26,396 tấn trong năm 2005 lên mức 542,840 tấn trong thời gian điều tra (từ ngày 1/7/2007-30/6/2008). Trung Quốc đã tăng thị phần xuất khẩu ở châu Âu từ 1% lên hơn 17% trong cùng kỳ - theo như điều tra của EU.
Trong cùng kỳ, mức sản xuất của các nhà sản xuất châu Âu vẫn khá ổn định và công suất tăng lên đến 90%. Nhưng cuộc điều tra đã cho thấy, công suất sản xuất của các nhà máy của EU trong 9 tháng này giảm còn 78% và lợi nhuận giảm.
Ủy ban châu Âu (EC) đã thông báo việc áp thuế chống bán phá giá này là do thép ống nhập khẩu từ Trung Quốc đã đe dọa và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhà sản xuất thép ống châu Âu, và Ủy ban đã chỉ ra rằng điều kiện ngành thép ống ở châu Âu ngày càng tồi tệ hơn trong những tháng sau đó do tăng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc cũng đã thông báo rằng, dựa theo các điều luật của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thuế chống bán phá giá chỉ được dựa vào loại hàng hóa bị ảnh hưởng, chứ không đơn thuần chỉ là dựa vào các lời cáo buộc.
14. Giá xuất khẩu thép ống giảm ở Thổ Nhĩ Kỳ
Giá xuất khẩu thép ống hàn ở Thổ Nhĩ Kỳ giảm $40-60/t do điều kiện thị trường xấu hơn, nhu cầu thấp và cung cấp nguyên liệu thô nhiều hơn – theo như các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
Giá cơ bản hiện tại thép ống S235 ERW CR đường kính 48mm giảm còn $660/t fob trong tháng vừa rồi. Giá loại sản phẩm này là $700-720/t fob trong đầu tháng 9.
1 nhà sản xuất thép ống Thổ Nhĩ Kỳ cho biết rằng, nhu cầu từ EU vẫn rất thấp và hiện tại họ đang tập trung nhiều hơn vào thị trường Trung Đông. Và họ dự kiến vẫn không phục hồi trước nửa cuối năm 2010.
“Thị trường vẫn yếu ớt và nhu cầu thấp từ các khách hàng lớn ở EU. Đó là nguyên nhân tại sao chúng tôi phải giảm giá để cân bằng thị trường và giữ khách hàng mặc dù chi phí thép lá cao” –anh ta cho biết.
15. Thị trường thép thanh không gỉ châu Âu có xu hướng giảm cho đến cuối năm 2009
Giá cơ bản thép thanh không gỉ ở châu Âu thép thanh đường kính 25-80mm, € cent/kg (bao gồm giao hàng) | ©SBB 2009 | |
| Jul 09 | Aug 09 | Sep 09 | Oct 09 | Nov 09* |
Loại 304L | 95 - 110 | 95 - 110 | 90 - 110 | 85 - 110 | 80 - 105 |
Nhu cầu thép thanh không gỉ trên thị trường châu Âu vẫn tiếp tục yếu, mặc dù tồn kho cao hơn cách đây 1 vài tháng.
Nhìn chung, thị trường Nam Âu dường như suy yếu hơn Bắc Âu, mặc dù nhu cầu ở Anh vẫn rất yếu. Cạnh tranh giữa các nhà máy châu Âu dường như càng gây khó khăn hơn đối với hàng nhập khẩu.
Giá cơ bản thép thanh không gỉ ferrit ở châu Âu thép thanh đường kính 8-25mm, | | € cent/kg (bao gồm giao hàng) | |
| Jul 09 | Aug 09 | Sept 09 | Oct 09 | Nov 09 |
Loại 430F | 110-120 | 120-125 | 120-130 | 120-125 | 115-120 |
16. Giá phế liệu Nam Âu giảm €10-20/t
Giá phế liệu vụn ở Nam Âu giao hàng nội địa | ©SBB 2009 | |
| Jul 09 | Aug 09 | Sep 09 | Oct 09 | Nov 09* |
€/t | 175 - 185 | 180 - 195 | 210 - 220 | 190 - 200 | 180 - 190 |
Thị trường phế liệu Nam Âu vẫn yên ắng trong tháng này, và các nhà buôn phế liệu thích dự trữ lại phế liệu hơn là bán đi vì giá rẻ. Giá phế liệu ở Ý và Tây Ban Nha trung bình giảm khoảng €10-20/t so với mức trong nửa cuối tháng 9 – theo như các nhà buôn phế liệu châu Âu cho biết.
Tuy nhiên, 1 số nhà máy ở Ý trong tuần này đang thanh toán với giá cao hơn €5/t và điều này rõ ràng đã làm tăng hi vọng của các nhà buôn phế liệu. Giá các sản phẩm thép dài cũng đang giảm ở Nam Âu do có ít đơn đặt hàng cả nội địa và xuất khẩu, và cả ngành xây dựng Ý và Tây Ban Nha đều không có dấu hiệu phục hồi.
Hiện tại, giá trung bình ở Nam Âu đối với phế liệu vụn (E40) là €190-200/t, giao hàng đến nhà máy.
17. Iran là quốc gia mua thép lớn nhất của Nga ở Trung Đông
xuất khẩu các sản phẩm thép từ Nga sang khu vực Trung Đông/Bắc Phi MENA) trong nửa đầu năm 2009 tăng 14% so với năm trước lên 2.83 triệu tấn – theo như Cục thống kê sắt thép Harvey Collyer cho biết trong 1 cuộc hội thảo Trung Đông trong tuần vừa rồi tại Dubai. Xuất khẩu của Ukraina giảm 9% còn 3.82 triệu tấn.
Iran là nhà nhập khẩu lớn nhất của MENA đối với các sản phẩm thép Nga trong nửa đầu năm 2009, với 1.9 triệu tấn, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Ai Cập là nước nhập khẩu lớn thứ 2 với 210,000tấn (tăng 13%).
Xuất khẩu các sản phẩm bán thành phẩm của Nga tăng 22% lên 1.61 triệu tấn, trong đó có 1.03 triệu tấn là xuất sang Iran. Xuất khẩu thép hình lớn tăng 881% lên 228,000 tấn, cũng phần lớn là xuất khẩu sang Iran. Xuất khẩu thép thanh xây dựng tăng 17% lên 138,000 tấn, trong đó có 106,000 tấn là sang Iran; Trong khi đó, HRC và thép tấm. thép thanh HR, giảm 13% và 54% còn 467,000 tấn và 103,000 tấn (tất cả đều xuất sang Iran). Ai Cập đã nhập khẩu 122,000 tấn thép bán thành phẩm của Nga.
Ukraina xuất khẩu sang Lebanon tăng 485% lên 824,000 tấn và sang Ai Cập tăng 25% lên 667,000 tấn. Xuất khẩu sang Syria và Jordan giảm lần lượt là 17% và 46% còn 531,000 tấn và 397,000 tấn từ tháng 1-6/2009.
Ukraine đã xuất khẩu 1.99 triệu tấn thép bán thành phẩm sang MENA, 637,000 tấn sang Lebanon, tăng 12% so với năm trước. Trong khi đó, xuất khẩu các sản phẩm khác giảm: thép thanh xây dựng giảm 8% còn 726,000 tấn, HRC và thép tấm giảm 31% còn 583,000 tấn, thép dây xây dựng giảm 43% còn 251,000 tấn và CRC giảm 6% còn 106,000 tấn.
18. Nhu cầu thép lá ở Arab Saudi tăng
nhu cầu thép thanh cuộn ở Arab Saudi đang tăng, và các nhà kinh doanh trên thị trường tin rằng tháng 11 sẽ là tháng tốt hơn. Các thương gia và các nhà sản xuất cho biết rằng, chào giá rẻ của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến thị trường Saudi.
HRC sản xuất ở Arab Saudi được chào giá $620/t EXW đối với HRC sản xuất cuối tháng 12. Trung Quốc đang chào giá HRC $510/t fob, nhưng các nhà kinh doanh trên thị trường Saudi nghĩ rằng giá có thể sẽ giảm hơn nữa sau tuần lễ Quốc khánh của Trung Quốc – hết ngày hôm nay.
HDG sản xuất ở Arab Saudi được chào giá $800/t EXW loại HDG dày 1mm. Nhà sản xuất địa phương Hadeed SABIC đã nhận đủ đơn đặt hàng cho đến cuối tháng 11. Chào giá nhập khẩu HDG là $825/t cfr từ Viễn Đông.
19. Qatar tăng giá thép thanh xây dựng, nhu cầu tăng
Qatar Steel đã tăng giá thép thanh xây dựng ở thị trường nội địa QAR 100/t ($27/t) lên QAR 2,000/t ($549/t), áp dụng từ ngày 1/10.
Giá của công ty vẫn không thay đổi trong 1 thời gian dài, và mức giá trước đây là QAR 1,900/t. Giá thép thanh xây dựng không mạ màu loại 16-40mm là QAR 2,140/t, loại 14mm là QAR 2,150/t, loại 12mm là QAR 2,205/t, loại 10mm là QAR 2,175/t và loại 8mm là QAR 2,515/t.
Qatar Steel là chi nhánh của Industries Qatar, và có công suất 1.1 triệu tấn phôi thép và 832,000 tấn thép thanh xây dựng mỗi năm. Công ty cũng có 1 nhà máy thép thanh xây dựng cuộn ở Dubai với công suất thép dây xây dựng là 540,000 tấn/năm.
20. China Steel dự kiến sẽ giữ nguyên giá thép nội địa trong tháng 12
Nhà sản xuất thép hàng đầu Đài Loan, China Steel Corp (CSC), sẽ đưa ra bảng giá nội địa tháng 12 vào cuối tháng này và dự kiến ít nhất là giá sẽ ổn định.
Tháng vừa rồi, CSC đã thông báo tăng giá 8.6% hay TWD 953-3,600/t ($29-109/t) đối với giá nội địa tháng 10-11. Tuy nhiên, công ty vẫn dự kiến mức giá sẽ tăng nhẹ đối với giá xuất khẩu các sản phẩm như: CRC và thép tấm mạ kẽm, thép cuộn giao hàng từ tháng 11-1 vì giá xuất khẩu thấp hơn giá trên thị trường quốc tế.
21. Giá dầm thép H Nhật Bản không thay đổi nhưng nhu cầu giảm
Giá dầm thép H nội địa Nhật Bản vẫn ổn định do nhu cầu yếu và giá phế liệu giảm hơn. Giá hiện tại trên thị trường loại dầm thép “chất lượng cao” ở khu vực Tokyo tiếp tục dao động khoảng ¥70,000/t ($786/t), không thay đổi trong khoảng 1 tháng.
“Các nhà phân phối đang cố gắng nâng giá để bằng hoặc cao hơn mức giá EXW nhưng đã làm cho giá phế liệu thấp hơn và nhu cầu yếu” – 1 thương gia ở miền tây Nhật Bản cho biết.
Tokyo Steel Manufacturing và Nippon Steel đã nâng giá dầm thép H trong các hợp đồng tháng 9 thêm ¥5,000/t, và các nhà phân phối cũng đã đạt được thành công đáng kể trong việc tăng giá đối với người sử dụng cuối cùng.
Tuy nhiên, đối với các giao dịch trong tháng hiện tại, Tokyo Steel vẫn giữ giá dầm thép H ở mức ¥70,000/t đối với loại lớn; Trong khi đó, Nippon Steel cũng vẫn đang giữ giá khoảng ¥72,000/t. 1 số nhà phân phối đang chào giá dầm thép lớn với giá ¥73,000/t nhưng do giá phế liệu giảm và nhu cầu yếu đã làm cho họ khó có thể bán với mức giá này được.
22. Sail vẫn giữ nguyên giá nội địa trong tháng 10
Công ty thép quốc doanh Steel Authority of India Ltd (Sail) vẫn giữ giá nội địa đối với các hợp đồng tháng 10. Sail đã không thay đổi giá EXW niêm yết đối với các sản phẩm. Vì vậy, thép thanh xây dựng loại 8mm Fe 500 tiếp tục bằng mức giá niêm yết trong tháng vừa rồi là Rs 31,000/t ($660/t) exw, chưa bao gồm thuế.
Tương tự, Sail tiếp tục giữ giá phôi thép 100x100mm là Rs 23,500/t, chưa bao gồm thuế. Trong tuần đầu tháng 9, Sail đã chào giá với chiết khấu Rs 1,000/t đối với phôi thép, vì vậy mức giá thực tế chỉ là Rs 22,500/t exw.
Tuy nhiên, sau đó, Sail đã ngưng chiết khấu phôi thép mặc dù sự thật là ngành xây dựng Ấn Độ đang suy yếu.
Giá các sản phẩm của Sail so với các sản phẩm của nhà sản xuất thép dài quốc doanh khác, Ispat Nigam Ltd (RINL), vẫn giữ nguyên giá tháng 10 bằng mức giá tháng 9. Giá phổ biến của thép thanh xây dựng loại 8mm Fe 500 của RINL là Rs 30,900/t exw, chưa bao gồm thuế, và giá phôi thép 125x125mm vẫn là Rs 23,100/t exw.
Đối với các sản phẩm thép thanh, Sail cũng tăng giá bằng cách cắt giảm chiết khấu. HRC 2mm loại thương mại của công ty tiếp tục được bán khoảng Rs 31,500/t (chưa bao gồm thuế) ở Mumbai.
23. Nhà máy thép cuộn không gỉ Hàn Quốc cắt giảm giá CRC loại 300
Chi nhánh thép không gỉ BNG Steel – thuộc Hyundai Steel đã quyết định giảm giá CRC không gỉ nội địa trong tháng 10, cắt giảm giá KRW 181,000/t ($154/t). Quyết định của BNG dựa theo Posco giảm giá HRC và CRC không gỉ loại 300 là KRW 150,000/t ($127/t) so với tháng trước. BNG mua HRC không gỉ từ Posco.
Đợt giảm giá này đã đưa ra mức giá mới của BNG loại CRC 304 (2mm) còn KRW 4.246 triệu/tấn ($3,605/t), áp dụng từ ngày 1/10. Nhưng giá loại CRC 430 vẫn không thay đổi ở mức KRW 2.68m/t ($2,275/t) trong tháng 9. BNG – công ty mẹ là Hyundai, cũng là 1 nhà sản xuất CRC không gỉ, cũng sẽ sớm thông báo mức giá mới.
Mặc dù thị trường thép không gỉ nội địa Hàn Quốc giảm trong tháng vừa rồi cùng với giá niken động, nhưng các nhà sản xuất thép không gỉ địa phương vẫn hi vọng rằng nhu cầu sẽ sớm phục hồi vì tháng 10-11 xưa nay là mùa cao điểm nhu cầu đối với thép không gỉ.
Nhưng giá thép không gỉ của các nhà phân phối địa phương có thể sẽ suy yếu trong thời gian còn lại của năm 2009 do các nhà phân phối muốn tăng doanh thu trước cuối năm 2009.
Hơn nữa, xu hướng thị trường nội địa và quốc tế vẫn không rõ ràng trong thời điểm hiện tại. Trên thị trường nội địa, Hàn Quốc chỉ vừa mới trở lại hoạt động từ ngày nghỉ lễ, và thị trường thép không gỉ Trung Quốc vẫn cứ yên ắng cho đến khi Trung Quốc trở lại hoạt động từ đợt nghỉ lễ Quốc khánh vào ngày 8/10. Giá niken quốc tế trên sàn London Metal Exchange đạt $18,550/t trong đầu tháng 9 nhưng giá ngày 5/10 đã giảm còn $17,150/t.
24. Nhập khẩu phế liệu của Pakistan tiếp tục giảm trong tháng 8
Nhập khẩu phế liệu của Pakistan tiếp tục giảm trong tháng 8 do thị trường suy yếu, các khó khăn về chính trị và thiếu điện – theo thống kê từ Cục thống kê Liên bang Pakistan.
Trong tháng 8, nhập khẩu phế liệu của Pakistan chỉ đạt 112,537 tấn, giảm 6.7% so với cùng kỳ 2008 và giảm 33.6% so với mức 169,369 tấn đã nhập khẩu trong tháng 7.
Tổng nhập khẩu phế liệu từ tháng 7-8 là 281,906 tấn, giảm 14.3% so với cùng kỳ 2008.
Theo dữ liệu của PFBS, nhập khẩu phế liệu tháng 8 đạt $30.9 triệu, tương đương khoảng $274/t, chủ yếu là các đơn đặt hàng trong tháng 7. Giá phế liệu cán lại là $260-270/t cfr, phế liệu vụn là $250-260/t cfr và HMS 1&2 80:20 là $240-245/t cfr trong cuối tháng 6.
Nhập khẩu phế liệu của Pakistan | | Tấn (Nguồn: PSBA) | |
| 2008 | 2009 | % change |
August | 120,583 | 112,537 | -6.7 |
Jul-Aug | 328,840 | 281,906 | -14.3 |