Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 07/11/2017

Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế

Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế DKP (tính theo đồng Lira) trong ngày hôm qua trong khi giá mua phế tàu tính bằng đồng dolla vẫn ổn định.

Tỷ giá đồng Lira tiếp tục suy yếu vào hôm qua và giá nhập khẩu phế tăng nhẹ trong các đơn hàng mới nhất từ các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhà máy Asil Celik Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá mua phế DKP thêm 20 TRY/tấn (5.20 USD/tấn) lên 1.190 TRY/tấn (311 USD/tấn).

Nhà máy Eregli mua phế DKP tại mức 1.190 TRY/tấn (311 USD/tấn) trong khi Kardemir mua tại mức 1.170 TRY/tấn (305 USD/tấn).

Các nhà máy khác vẫn duy trì giá mua phế DKP trong ngày đầu tuần trong khi giá mua phế tàu tính theo đồng dolla vẫn ổn định ở mức 305-310 USD/tấn.

SSAB Americas hưởng ứng tăng giá thép tấm dày thêm 40 USD/tấn theo Nucor

SSAB Americas đã thông báo tăng giá tấm dày thêm 40 USD/tấn vào hôm thứ hai theo Nucor. Giá tăng được áp dụng ngay cho các đơn hàng mới.

Thị tường dự báo giá sẽ tăng trong năm nay nhưng nhiều người ngạc nhiên về thời điểm tăng giá.

Bàn về các hợp đồng cuối năm, thị trường vẫn rối rắm về giá với các chiết khấu cho đơn hàng cuối năm trong khi hiện tại các nhà máy tăng giá.

Tấm mỏng tăng giá do các nhà máy nâng giá vào giữa tháng 10 với giá HRC đã vượt mặt thép tấm dày ở vài khu vực. Nhập khẩu giảm xuống mức thấp 5 tháng là 53.105 tấn trong tháng 9. Tuy nhiên, thời gian giao hàng đã mở ra tới tháng 1 và giá thép không nhận được lực hỗ trợ từ giá phế trong tháng 11.

Không có thông báo tăng giá từ các nhà máy ArcelorMittal USA hoặc Evraz North America.

Platts duy trì giá tấm dày thương phẩm A36 tại mức ổn định 609.50 USD/tấn xuất xưởng đông nam Mỹ.

Các nhà xuất khẩu phôi thanh Nhật hưởng lợi từ sự vắng mặt của Trung Quốc

Xuất khẩu phôi thanh Nhật trong tháng 9 tăng 55.6% so với cùng kỳ năm ngoái lên 73.981 tấn trong khi giá xuất khẩu trung bình là 46.530 tấn (426 USD/tấn) FOB, tăng 12.251 tấn so với tháng 9/2016 và 2.221 Yên/tấn so với tháng 8 năm nay.

Sản lượng xuất khẩu tháng 9 giảm 24.6% so với tháng 8. Xuất khẩu giảm do bão làm gián đoạn quá trình giao hàng.

Một thương nhân Nhât cho biết các nhà máy mini trước đó đã chấp nhận các đơn hàng xuất khẩu phôi thanh để nâng công suất nhằm giảm chi phí sản xuất nói chung. Tuy nhiên, do giá phôi thanh tăng, các nhà máy mini có thể kiếm lời và họ tăng xuất khẩu.

Giá xuất khẩu hiện tại tới các nước Châu Á là 53.000-54.000 Yên/tấn FOB. Chi phí sản xuất tầm 50.000 Yên/tấn với 15.000 Yên/tấn cho luyện gang và 31.000-32.000 yên/tấn cho giá mua phế, cộng 4.000 Yên/tấn cho chi phí vận tải. Kiếm lời được 3.000-4.000 Yên/tấn là đã quá tốt cho các nhà máy phôi thanh.

Xuất khẩu phôi thanh Nhật tới Hàn Quốc trong tháng 9 là 48.22 tấn, tăng 68.9% so với cùng kỳ năm ngoái và 24.1% so với tháng 8 trong khi xuất khẩu tới Đài Loan là 14.575 tấn, tăng 62.4% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm 44.8% so với tháng 8. Xuất khẩu tới Philippines là 6.254 taans, tăng từ mức 0 tháng 9 năm ngoái nhưng giảm 72.1% so với tháng 8.

Sự vắng mặt của Trung Quốc đã giúp tăng nhu cầu tiêu thụ phôi thanh Nhật của các nước khác. Đây là cơ hội lớn cho các nhà máy mini Nhật tăng xuất khẩu phôi thanh và kiếm lời.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thép cây do đồng Lira mất giá

Ít nhất hai nhà máy thép cây lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thép cây và thép dây trong ngày hôm qua do đồng Lira tiếp tục mất giá.

Thậm chí sau sự can thiệp của ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ nhằm cung cấp thanh khoản USD cho thị trường, đồng Lira giao dịch ở mức thấp 3.86-3.87 TRY/USD so với mức 3.79-3.80 TRY/USD hồi đầu tuần trước.

Nhà máy Icdas tăng giá niêm yết thép cây 12-32mm thêm 40 TRY/tấn (10.40 USD/tấn) lên 22.420 TRY/tấn xuất xưởng ở Istanbul, và 2.390 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga, Canakkale. Giá đã tính thuế và tương đương 532 USD/tấn và 524 USD/tấn chưa thuế. Giá chào xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm 5-10 USD/tấn tùy vào khối lượng và nơi đến.

Icdas cũng tăng giá thép cây 10mm lên 2.430 TRY/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm tăng lên 2.440 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Giá cho thép dây 7-8.5mm tăng cùng mức lên 2.550-2.589 TRY/tấn xuất xưởng có thuế.

Izmir Demir Celik (IDC) cũng tăng giá thép cây cùng mức. Giá của IDC cho thép cây 12-32mm đạt mức 2.390 TRY/tấn xuất xưởng trong khi các nhà máy khác cũng tăng giá niêm yết thép dài.

Kardemir đã ngưng nhận đơn hàng thép cây và dự báo sẽ chào bán lại với giá tăng trong những ngày tới.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá HDG theo giá HRC

 Một nhà máy lớn của Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực Marmara giảm giá chào bán HDG xuống thêm 10-15 USD/tấn trong ngày thứ hai, dựa vào chi phí HRC giảm. Giá niêm yết HDG đã giảm tổng cộng 150-160 USD/tấn kể từ cuối tháng 9.

Một nhà máy theo đuổi chiến lược cạnh tranh giá để kích cầu trong hơn một tháng và xác nhận nguồn hàng dự trữ trong kho đã giảm.

Nhà máy này bắt đầu chào bán HDG 0.5mm tại mức 700-705 USD/tấn xuất xưởng trong nước trong khi loại 1mm ở mức 650-655 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào HDG 2.0mm ở mức 610-615 USD/tấn xuất xưởng.

Một trung tâm dịch vụ dự báo các nhà máy thép mạ khác cũng sẽ giảm giá theo do chênh lệch giá nội địa đã ở mức 40 USD/tấn sau lần cắt giảm gần đây.

Người mua hiện đang cố gắng hủy các đơn hàng giá cao trước đây. Giá giảm làm thị trường mất cân bằng. Thậm chí mức 690 USD/tấn xuất xưởng cho HDG 0.5mm cũng có sẵn cho các đơn hàng lớn.

Một nhà máy cho biết đang chiết khấu 10-15 USD/tấn cho các đơn hàng lớn nhưng không chào giá thấp như vậy cho tất cả các đơn hàng HDG mặc dù nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu chậm.

Giao dịch HRC gần đây tại thị trường nội địa chốt ở mức thấp 565 USD/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng lớn trong khi giá chào tầm 570-580 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, giá chào từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ giảm sau khi các đơn hàng chốt ở mức 555-560 USD/tấn CFR trong mấy tuần trước.

Có tin đồn rằng các nhà máy CIS giảm giá chào xuống 525-530 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, một trung tâm dịch vụ cho hay chưa nhận được chào giá này. Nếu giá nhập khẩu thực sự giảm xuống mức đó thì giá trong nước có thể là 550 USD/tấn xuất xưởng.

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong bối cảnh giá nội địa tăng

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định do các nhà máy giữ giá chào bán trong khi giá nội địa và giao kỳ hạn tăng. Platts duy trì giá thép cây BS500 16-20mm Trung Quốc tại mức 516-517 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Tại Hồng Kông, một thương nhân Trung Quốc giữ giá chào ổn định ở mức 524 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho thép cây 10-32mm giao tháng 12. Giá tương đương mức 518 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 11 USD/tấn.

Các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào thép cây 10-40mm tại mức 540 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (529 USD/tấn FOB).

Chào giá cho thép cây Ấn Độ ở mức 518 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế trong khi giá từ Thổ Nhĩ Kỳ và Qatari ở mức 525 USD/tấn CFR. Một nhà môi giới khác cho biết đã chào mua thép cây Thổ Nhĩ Kỳ và Qatari tại mức 510 USD/tấn CFR, tuy nhiên, phía người bán không chấp nhận.

Một nhà môi giới Singapore cho biết vài khách hàng trong nước có thể đặt hàng ở mức 515-520 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 512-518 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 18 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng. Tuy nhiên, không có nhà máy nào thực sự bán giá này.Một thương nhân khác cho biết người mua không có ý định đặt hàng lúc này vì có đủ hàng dự trữ và chờ xu hướng thị trường rõ ràng hơn trước khi đặt hàng.

Một nhà xuất khẩu lớn ở miền đông giữ giá chào ổn định ở mức 525 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 541 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 3% chênh lệch khối lượng. Giá không thu hút người mua kể từ tuần trước và có thể đàm phán giá cho đơn hàng lớn.

Giá tấm mỏng Mỹ giảm do các giao dịch giá thấp

Giá tấm mỏng Mỹ giảm nhẹ trong ngày thứ hai do các giao dịch giá thấp diễn ra trong tuần trước.

Platts giảm giá HRC Mỹ xuống 4.25 USD/tấn còn 615.25 USD/tấn xuất xưởng Indiana. Một nhà máy Mỹ bán hơn 5.000 tấn tại mức 612 USD/tấn trong khi một nhà máy khác bán 150 tấn tại mức 600 USD/tấn.

Giá chào HRC khá lộn xộn trong ngày hôm qua. Một trung tâm dịch vụ cho biết đã mua vài trăm tấn HRC tại mức 620 USD/tấn trong tuần trước và không thấy có giá thấp hơn. Theo ông, giá tăng chậm kể từ sau khi các nhà máy thông báo tăng giá trong tháng trước.

Tuy nhiên,một trung tâm dịch vụ cho biết giá HRC giao ngay ở mức 600-610 USD/tấn trong ngày thứ hai.

Thị trường bất ổn do giá phế có nguy cơ giảm nhưng các nhà máy vẫn cố gắng giữ giá tăng. Các nhà máy thép đã mua phế chất lượng cao tại mức giảm 10 USD/tấn so với tháng 10 trong khi phế cũ ổn định ở hầu hết các khu vực trong tuần trước.

Giá chào CRC và HDG tiếp tục dao động trong biên độ rộng. Platts giảm giá CRC Mỹ xuống 1 USD/tấn còn 804.50 USD/tấn.

Giá giao dịch CRC ở mức cao 848 USD/tấn cho hơn 150 tấn từ một nhà máy Mỹ, tuy nhiên, một nhà máy khác cho biết hầu hết các giao dịch ở mức 794 USD/tấn cho its hơn 200 tấn.

Giá HDG tiếp tục được nghe ở mức 760-800 USD/tấn nhưng vài nhà máy đang đặt mục tiêu giá cao 820 USD/tấn. Giá giao dịch HDG đã tính phụ phí ở mức 870-905 USD/tấn trong tuần trước.

Platts giảm giá HDG 16-gauge phủ 90 g kẽm/m2 xuống 2.25 USD/tấn còn 880 USD/tấn xuất xưởng Midwest. 

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định dù giá thép nội địa tăng

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định ngày thứ năm liên tiếp do các nhà máy giữ giá chào mặc dù giá thép trong nước tăng.

Platts vẫn duy trì giá HRC SS400 3.0mm Trung Quốc ổn định tại mức 544-546 USD/tấn FOB Trung Quốc. Tương tự, giá nhập khẩu vào Đông Á cũng ổn định ở mức 554-556 USD/tấn CFR Đông Á.

Giá giao ngay trong nước tăng 50 NDT/tấn lên 4.070-4.090 NDT/tấn (614-617 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.

Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 1/2018 chốt tăng 147 NDT/tấn lên 3.970 NDT/tấn.

Một nhà máy lớn ở phía đông giữ giá chào ổn định ở mức 550 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400. Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu không dự thầu. Trong khi đó, một nhà máy khác giảm giá xuống 5 USD/tấn còn 550 USD/tấn FOB nhưng cũng không thu được đơn hàng.

Các khách hàng Việt Nam tiếp tục trì hoãn đơn hàng do họ có thể mua giá rẻ hơn ở trong nước. Một nhà máy Đài Loan chào bán HRC 2.0mm tại mức 590 USD/tấn CFR Hàn Quốc.

Trong tuần trước, hai đơn hàng HRC SAE1006 được chốt. Đơn hàng thứ nhất được bán bởi một nhà máy Ấn Độ ở mức 550 USD/tấn CFR Việt Nam khối lượng 10.000 tấn giao tháng 12 chốt trong ngày thứ sáu. Đơn hàng thứ hai từ Trung Quốc ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 12 với khối lượng 20.000 tấn.