Nhà xuất khẩu phôi thanh CIS không sẵn sàng chấp nhận giá mua của Thổ Nhĩ Kỳ
Phôi thanh Biển Đen tiếp tục hầu như không thu hút tại các thị trường xuất khẩu truyền thống, bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập. Sau khi cung cấp doanh số khá lớn đến Vịnh Ba Tư và một số đến Đông Nam Á ở mức giá cao hơn được hỗ trợ bởi sự phục hồi của Trung Quốc, các nhà máy CIS đang cho thấy vẫn chưa sẵn sàng để cạnh tranh tích cực cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ.
Một thương nhân cho biết lô hàng phôi thanh tháng Chín đã được bán, trong khi hàng giao tháng Mười-đầu tháng Mười Một chưa cần thiết phải bán ngay. Do đó những báo giá FOB được báo cáo tại mức 330-335usd/tấn, không thay đổi trong vài tuần qua. Một nguồn tin thương mại cho biết hợp đồng của tuần trước là 40.000 tấn tại mức 355usd/tấn CNF Philippines, tương ứng với 325usd/tấn FOB Biển Đen. Mức giá tương tự cũng đã được khẳng định trong kinh doanh đến Saudi Arabia.
Người mua Thổ Nhĩ Kỳ, mặt khác, từ chối chào giá CIS chốt ở mức 340usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, thay vào đó đặt mua phế giá hấp dẫn hơn hoặc phôi thanh trong nước. “Với phế ở mức 218-220usd/tấn CFR tôi không thấy bất cứ ai ở Thổ Nhĩ Kỳ đặt mua phôi thanh [từ CIS],” một thương nhân ở châu Âu nhận xét. Ngoài ra, phôi thanh địa phương ở mức giá 340-345usd/tấn FOT được xem như là một thay thế tốt hơn so với hàng nhâp khẩu đắt tiền.
Tuần này người mua ở Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ hầu như im ắng trước lễ hội Eid tuần tới. Sự kỳ vọng chính là thị trường sẽ phục hồi, nhưng chỉ sau khi kỳ nghỉ kết thúc, vì vậy trong nửa cuối của tháng Chín, một nhà kinh doanh nói. Người mua Thổ Nhĩ Kỳ sẵn sàng trả 318-319usd/tấn FOB Biển Đen cho vật liệu CIS tuần này, mức giá không phù hợp với bất kỳ nhà máy nào – 325usd/tấn FOB được xem là chào giá cạnh tranh nhất.
Platts định giá giá phôi thanh hàng ngày tại mức 322usd/tấn FOB Biển Đen, giảm 3usd/tấn trong ngày.
Giá tấm cuộn dẹt Mỹ giảm, giá chào bán không hỗ trợ
Giá thép cuộn cán nóng và cán nguội ở Mỹ đã giảm hôm thứ Tư do giá thấp hơn từ các nhà máy mini, trong khi giá phế tháng Chín ở mức thấp đã gia tăng thêm nhiều áp lực.
Hai nguồn tin nhà máy nhận thấy sự cải thiện nhẹ trong đơn hàng tuần này, tuy nhiên, khối lượng chung vẫn ở dưới mức trung bình.
Một nguồn tin nhà máy cho biết ông đã nhìn thấy đơn đặt hàng cải thiện trong tuần trước nhưng vẫn còn một chút chậm. Tuần này là một khởi đầu khá hơn, và hy vọng xu hướng sẽ duy trì. Giá đi xuống là do các nhà máy mini, ông nói thêm với HRC trong phạm vi 540-560usd/tấn ngắn như là một phạm vi giá rất phổ biến.
Một nguồn tin nhà máy thứ hai cho biết đơn đặt hàng đã được cải thiện nhưng vẫn không hoàn toàn trở lại mức trước tháng Bảy và đã nghe nói giá HRC có sẵn trong khoảng 540-550usd/tấn ngắn, với mức thấp nhất trong phạm vi giá trên được yêu cầu cho đơn đặt hàng khối lượng lớn hơn. Ngoài ra, phế sẽ giảm giá trong tháng Chín sẽ không giúp cho giá duy trì ổn định.
Nhà máy đầu tiên tham gia thị trường phế tháng Chín đã mua phế liệu ở mức giảm 20-30usd/tấn dài so với giá tháng Tám.
Tuy nhiên, một nguồn tin nhà máy thứ ba tin rằng giá giao ngay HRC vẫn là 580usd/tấn ngắn và cao hơn nhưng cũng thừa nhận một số giao dịch đã được thực hiện thấp hơn một chút. Ông cho biết những mức giá thấp hơn là không điển hình, giao dịch lặp lại. Đối với CRC, ông cho biết một số giao dịch ở mức 800usd/tấn ngắn nhưng hầu hết là790-800usd/tấn ngắn.
Một người mua cho biết đã bắt đầu nhìn thấy một nhà sản xuất tích hợp trở nên cạnh tranh hơn trong tuần này. Ngoài ra, tin rằng nếu đặt 200-300 tấn ngăn HRC giao ngay người này chỉ phải trả 550usd/tấn ngắn xuất xưởng nhà máy Trung Tây và sẽ thúc đẩy mức 540usd/tấn ngắn.
Một nguồn tin nhà máy thứ tư cho biết người mua HRC đã đặt hàng ngàn tấn sẽ có thể mua ở mức 540usd/tấn ngắn nhưng cho biết người mua 300-500 tấn ngắn sẽ ở mức giá 560usd/tấn ngắn.
Platts hôm thứ Tư hạ định giá HRC và CRC hàng ngày còn 550-570usd/tấn ngắn và 790-800usd/tấn ngắn từ mức 560-580usd/tấn ngắn và 790-810usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai định giá được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá HRC EU
The latest import offer was heard at €415/mt CIF Antwerp from a Turkish mill, but with Turkish producers setting higher prices this was not anticipated to remain in the market long.
Platts tăng mức trung điểm của định giá HRC Bắc Âu hàng ngày thêm 5euro/tấn vào hôm thứ Tư, vào phạm vi giá chào 435-445euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Một số nhà máy đã được nghe nói được báo giá 460-465euro/tấn xuất xưởng, thấp hơn mức 470euro/tấn được chào giá bởi ArcelorMittal.
Trong khi thị trường vẫn chưa ở mức này, các nguồn tin cho biết chào giá trước đó khoảng 420-430euro/tấn đã không còn phản ánh giá trị lặp lại. Một người mua ở Đức cho biết giá giao dịch bây giờ là 440euro/tấn nhưng thiết lập để cao hơn.
Chào giá nhập khẩu mới nhất đã được nghe nói đến ở mức 415euro/tấn CIF Antwerp từ một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng với các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập mức giá cao hơn này đã đoán sẽ không duy trì lâu dài trên thị trường.
Nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng đẩy giá HDG hơn nữa
Mặc dù vấn đề về dòng tiền và nhu cầu tiêu thụ thấp vẫn tiếp tục thống trị thị trường thép cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ trước kỳ nghỉ lễ Eid 1 tuần, một số nhà sản xuất địa phương đã cố gắng để nâng cao giá niêm yết cuộn mạ hơn nữa hôm thứ Tư theo hầu hết xu hướng giá thế giới, theo các nguồn công nghiệp.
Hai nhà sản xuất thép cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã chính thức tái mở bán đặt hàng cho thị trường trong nước với giá cao hơn hôm thứ Sáu tuần trước. Chào giá của các nhà sản xuất địa phương cho thị trường trong nước tăng khoảng 20-30usd/tấn với mức tăng giá này. Tuy nhiên, các nhà sản xuất này đã chốt đặt hàng hôm thứ tư và dự kiến sẽ mở bán lại với giá cao hơn sớm.
“Chúng tôi chốt đặt hàng vào sáng nay. Chúng tôi có thể sớm mở bán ngay với giá cao hơn khoảng 20usd/tấn,” một nguồn tin từ một nhà sản xuất thép cuộn mạ lớn nói. Chào giá của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG 0.5mm đã tăng thêm 20-30usd/tấn lên đến 580-600usd/tấn xuất xưởng, với mức tăng của nhà máy cuối tuần trước, trong khi chào giá cho PPGI 9002 0.5mm đạt 670-690usd/tấn xuất xưởng.
Mức giá cả cạnh tranh đã hỗ trợ doanh số xuất khẩu HDG của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong những tuần gần đây, nhưng chào giá cũng có thể tăng cường hơn nữa trong những ngày tới, các nguồn tin quan sát.
Những người tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ dự đoán sẽ có điều chỉnh tăng giá tấm mỏng trong nước sau kỳ nghỉ lễ Eid. “Tuy nhiên, các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ có thể là đã quá muộn để tăng giá, khi xu hướng mạnh lên của giá chào Trung Quốc có thể đảo ngược trong vài tuần tới,” một giám đốc trung tâm dịch vụ quan sát.
Trong khi đó, giá niêm yết của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho HRC là trong khoảng 420-440usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, trong khi chào giá của nhà tích trữ cho thị trường trong nước cao hơn 20usd/tấn so với giá niêm yết nhà máy.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 370-380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ thứ Tư, với trung điểm là 375usd/tấn FOB, ổn định trong ngày.
Các nguồn tin thị trường cho biết giá thép cây sẽ duy trì ổn định trong vài tuần tới đây do các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chuẩn bị cho tuần nghỉ lễ và đã không đưa ra bất kỳ nhượng bộ giá cả nào trước khi thị trường đóng cửa.
Chào giá vẫn không đổi ở mức 380-385usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một doanh số bán không xác định đến Ai Cập được báo cáo ở mức 375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một nhà cán lại ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng ghi nhận doanh số bán hàng vào thị trường Mỹ có thể được thực hiện ở mức giá FOB tối thiểu là 380usd/tấn. Ông cho biết giá dưới 370usd/tấn FOB có thể được nhìn thấy trong doanh số bán đến UAE cho khối lượng tiêu chuẩn nêu trên, nhưng cao hơn 365usd/tấn FOB.
Platts giữ ổn định định giá do các nguồn tin bán tán một thỏa thuận đến Ai Cập tại mức 375usd/tấn FOB và giá cả đến thị trường UAE và Mỹ tại mức 370usd/tấn FOB và 380usd/tấn FOB tương ứng, phù hợp với định giá Platts là 370-380usd/tấn FOB .
Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ thắt chặt lại trong phạm vi hẹp hơn
Giá mua bằng đồng lira của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế DKP vẫn tiếp tục duy trì ổn định trong những tuần gần đây, bất chấp một số điều chỉnh tỉ giá nhẹ. Giá mua bằng USD của nhà máy cho phế shipbreaking phế liệu đang ở trong một phạm vi hẹp hơn trong tuần này, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thu thép thành phẩm chậm, nguồn tin công nghiệp cho biết hôm thứ Tư.
Giá mua các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, Ozkan, Habas, IDC), đã phần lớn đi theo xu hướng của giá phế nhập khẩu, đang ở trong một phạm vi hẹp hơn 224-227usd/tấn thứ Tư .
Giá mua bằng đồng lira của nhà máy cho DKP trong nước, trong khi đó, phần lớn vẫn ổn định trong những ngày gần đây, bất chấp một số điều chỉnh tỉ giá nhẹ. Một trong những nhà sản xuất thép EAF lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu, cộng với nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik, đã tăng giá mua DKP thêm 15-20TRY/tấn lên mưc 635TRY (217usd)/tấn và 665TRY(227usd)/tấn tương ứng.
Nhà sản xuất thép dài lớn Kroman vẫn mua DKP ở mức 650TRY (222usd)/tấn vào thứ Tư, ổn định trong tuần, trong khi giá thu mua phế nội địa của các nhà máy EAF hàng đầu khác của Thổ Nhĩ Kỳ EAF vẫn ổn định trong khoảng 650-665TRY (222-227usd)/tấn, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu nhà máy.
Tuy nhiên, nhà máy thép tích hợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, nhà máy Eregli của tập đoàn Erdemir ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, tăng giá mua đối với DKP thêm 30TRY (10usd)/tấn lên mức 710TRY(242usd)/tấn.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS hằng ngày ở mức 322usd/tấn FOB Biển Đen thứ Ba, giảm 3usd trong ngày.
Phôi cung cấp từ các nhà máy CIS dao động trong phạm vi 330-335usd/tấn FOB Biển Đen, theo một nguồn tin giao dịch. Các chào giá khác của CIS nghe nói ở mức 340-345usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 325-335usd/tấn FOB Biển Đen, một thương gia sản xuất thanh thương phẩm Thổ Nhĩ Kỳ cho biết. Một nguồn tin khác cho biết người mua Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm phôi CIS trong khoảng 318-319usd/tấn FOB Biển Đen.
Ở những nơi khác, một thỏa thuận đã được báo cáo từ một nhà máy của Nga đến Philippines vào cuối tuần trước tại mức 355usd/tấn CNF Philippines, tương đương 320-325usd/tấn FOB Biển Đen. Thỏa thuận này cho 40.000 so với phạm vi định giá giữa 5.000-20.000 tấn. Trong khi đó, thị trường Trung Quốc nghe nói đã dịu lại trong vài ngày qua, với phôi thanh trong nước được khảo sát tại mức 2210NDT/tấn, giảm khoảng 4-5usd/tấn trong ngày, một nguồn tin cho biết.
Định giá được đặt ở mức trung điểm giữa giá chào mua cao nhất nghe nói trên thị trường – 319usd/tấn FOB Biển Đen - và chào giá bán thấp nhất hiện nay ở mức 325usd/tấn FOB Biển Đen.
Nhà máy Midwest bắt đầu tuần mua phế tháng Chín tại mức giảm 20-30usd/tấn dài
Một nhà máy ở khu vực Detroit đã tham gia thị trường vào chiều thứ Tư với giá chào mua đến cá nhà cung cấp phế liệu ferrous giảm 30usd/tấn dài cho phế prime và giảm 20usd/tấn dài cho phế cũ so với giá đầu tháng Tám. Các nhà cung cấp đã bán tại mức giá đó và các nhà máy thép Midwest khác đã nhanh chóng đi theo mức giá giảm này.
Platts định giá phế vụn tại 220-225usd/tấn dài đã giao Midwest, giảm 10usd/tấn dài từ thứ Ba và giảm 20usd/tấn dài từ tháng Tám.
Phế No. 1 busheling được giao dịch ở mức 230usd/tấn dài và phế P&S được giao dịch ở mức 215-220usd/tấn dài đã giao nhà máy ở Midwest.
Nhu cầu tiêu thụ suy yếu liên quan đến công suất hoạt động thấp đã cắt giảm đáng kể nhu cầu tiêu thụ quanh Chicago và Detroit. Thị trường phế đã chậm phát triển hơn ở Đông Nam. Một số nhà cung cấp đã nhận được tín hiệu của một người tiêu dùng về viễn cảnh giảm 40usd/tấn dài đối với giá phế prime.
Giao dịch dự kiến sẽ tiếp tục vào thứ Năm và chốt lại vào cuối tuần.
Một nhà tái chế ở Đông Nam dự đoán rằng phế prime chốt ở mức giảm 20usd/tấn dài và phế cũ giảm tối thiểu 10usd/tấn dài, nhưng có thể các đại lý sẽ kháng cự ở yêu cầu giảm giá 20usd/tấn dài, đặc biệt là cho phế sạch.
Thép cây Châu Á mất đà tăng khi thị trường Trung Quốc trượt dốc
Thị trường thép cây giao ngay tại Châu Á suy yếu hôm thứ Tư, vì người mua để mắt tới mức giá thấp hơn do giá giao ngay và kỳ hạn của Trung Quốc đều đang rớt. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 350-352 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, giảm 2 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy ở miền đông đã hạ chào giá xuống 5 USD/tấn còn 355 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 366 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, dung sai khối lượng 3%.
Một nhà máy khác ở miền đông cũng hạ giá bán kỳ vọng xuống 5 USD/tấn còn 365 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, tương đương 356 USD/tấn FOB phí vận chuyển 9 USD/tấn. Nhưng giá hỏi mua từ Hong Kong chỉ khoảng 350 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (tương đương 341 USD/tấn FOB).
Một nhà tích trữ Hong Kong lưu ý rằng các nhà tích trữ Trung Quốc vẫn thấy khó mà chấp nhận mức giá hỏi mua này ngay cả khi họ nhận thấy nhu cầu không sáng sủa trong năm nay.
Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã chào giá 365 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, trong khi một nhà máy ở đông bắc duy trì chào giá ở mức 360 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một thương nhân ở Singapore dự báo giá sẽ giảm do niềm tin thị trường suy yếu. Hiện nay, mức giá giao dịch trong nước tại Singapore để cung cấp cho các dự án xây dựng là khoảng 310 USD/tấn trọng lượng lý thuyết. Vì vậy thật khó để người mua ở đó đặt hàng với giá 355 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết, tương đương 353 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.
Cuộn trơn Châu Á tiếp tục lao dốc do thị trường Trung Quốc suy yếu
Giá cuộn trơn giao ngay tới Châu Á lại giảm trong 7 ngày đầu tiên của tháng 9, vì giá của người mua đưa ra tiếp tục có xu hướng đi xuống cùng với sự lao dốc của chào giá trong nước và xuất khẩu trên thị trường Trung Quốc. Hôm 7/9, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm là 357-359 USD/tấn FOB, giảm 8 USD/tấn so với 1 tuần trước đó.
Một nhà máy lớn ở miền bắc chào giá 365 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, giảm 5 USD/tấn so với 1 tuần trước đó và phản ánh giá phôi thép thấp hơn trên thị trường giao ngay trong nước.
Chào giá xuất khẩu phổ biến của các nhà máy miền bắc là khoảng 365-370 USD/tấn FOB, một mức giá quá cao để được người mua chấp nhận. Trong khi đó, cùng ngày một nhà máy lớn ở miền đông chào giá 375 USD/tấn FOB.
Mức giá mua lý tưởng trong số những khách hàng đã giảm nhanh chóng trong tuần này, vì họ quan sát thị trường Trung Quốc một cách chặt chẽ. Giá phôi thép cùng với hợp đồng giao sau sụt giảm đã ảnh hưởng tới niềm tin thị trường và đẩy nhiều người mua hơn rời khỏi thị trường.
Đồng thời, các giao dịch có thể được chốt ở quanh mức giá 365-370 USD/tấn CFR Việt Nam. Mức giá này tương đương với 357 USD/tấn FOB- phí vận chuyển 8 USD/tấn. Thị trường xuất khẩu nhìn chung vẫn còn trầm lắng trong tuần này do sự bất ổn hiện nay.
Cũng trong ngày 7/9, Jiujiang Iron & Steel, một nhà xuất khẩu ở tỉnh Hà Bắc đã duy trì giá niêm yết trong nước cho thép dây ở mức 2.395 NDT/tấn (359 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT. Tại thị trường giao ngay Thượng Hải hôm 7/9, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.450-2.480 NDT/tấn (367-371 USD/tấn), xuất xưởng gồm VAT, giảm 5 NDT/tấn (1 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Các nhà máy Ấn Độ nâng giá HRC để tối đa hóa lợi nhuận 6 tháng đầu năm
Các doanh nghiệp sản xuất thép của Ấn Độ đã nâng giá HRC với nỗ lực để tối đa hóa lợi nhuận trước khi kết thúc nửa đầu năm tài chính hiện hành vào ngày 31/9.
Trong tuần này, Platts định giá HRC IS 2062 A/B dày 3mm cao hơn 500 Rupees/tấn lên 28.000-29.000 Rupees/tấn (410-424 USD/tấn) xuất xưởng.
Nhu cầu HRC trong nước không tăng nhưng các nhà máy đang hy vọng giá cao sẽ ít gặp phải sự phản đối từ phía người mua. “Ngành thép đối mặt với khủng hoảng thanh khoản khi ngân hàng cho vay ngày càng siết chặt hơn qua từng ngày”, ông thừa nhận.
Nhập khẩu thép sụt giảm kết hợp với xuất khẩu gia tăng khiến các nhà máy Ấn Độ hạn chế nguồn cung ra thị trường nội địa. “Người mua không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải chấp nhận mức giá cao này”, một khách hàng ở miền bắc thừa nhận.
Từ tháng 4 đến tháng 8, tổng lượng thép xuất khẩu của Ấn Độ tăng 23,5% so với năm ngoái đạt 2,37 triệu tấn. Trong cùng thời gian này, lượng thép nhập khẩu đã giảm 34,5% xuống 3,01 triệu tấn.
Các nhà máy trong nước đã nâng giá HRC lên khoảng 2.500 Rupees/tấn bởi vì việc áp thuế chống bán phá giá sơ bộ được thông báo hồi đầu tháng 8.
Người mua cũng đang gồng mình chống đỡ mức giá tăng thêm nữa. Các nhà máy hiện đang tăng giá giao ngay vì vậy họ có thể đặt mục tiêu cho giá cao hơn trong những tháng tới.
HRC Trung Quốc suy yếu gây sức ép lên giá Châu Á
Giá HRC nhập khẩu tới Châu Á lại sụt giảm trong ngày thứ Tư khi người bán sợ giá sẽ suy yếu hơn nữa do giá trên thị trường Trung Quốc tiếp tục lún sâu và tồn kho cao.
Platts định giá SS400 HRC 3.0mm trong khoảng 385-390 USD/tấn FOB Trung Quốc, mức giá trung bình 387,5 USD/tấn, giảm 4,5 USD/tấn so với ngày trước đó. Tại thị trường Thượng Hải cùng ngày, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.740 NDT/tấn (411 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn ngày trước đó 45 NDT/tấn.
Một số nhà máy Trung Quốc sẵn sàng bán SS400 HRC với giá 385 USD/tấn FOB Trung Quốc, một nhà máy lớn ở đông bắc có thể sẽ cân nhắc bán với giá 390 USD/tấn FOB mặc dù chào giá của họ vẫn giữ ở mức 395 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Một thương nhân khác người Hàn Quốc cũng đồng tình và cho biết nhà máy đang được nói tới đã chào giá 410 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE (phí vận chuyển 8 USD/tấn), cao hơn 10 USD/tấn so với SS400 HRC.
Thương nhân đầu tiên cho biết giá Trung Quốc giảm một chút được hoan nghênh vì người mua sẽ xem xét việc đặt hàng ở mức giá tương đối thấp hơn. Bà dự báo giao dịch sẽ cải thiện trong hai ngày tới.
Tại Việt Nam, các thương nhân với hàng tồn trong tay đã tăng cường tốc độ thanh lý. Một giao dịch cho khoảng 18.000 tấn SAE được sản xuất bởi một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc được ký kết với giá khoảng 404 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần này. Một thương nhân thậm chí đã bán 5.000 tấn thép cuộn cùng loại với giá chỉ có 395 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Ba.
Tuy nhiên, một mức giá thấp như vậy không thể lặp lại trong tình hình hiện nay, mặc dù một thương nhân ở Hong Kong đã nhận được một mức giá như vậy hôm thứ Tư.
“Các nhà máy Trung Quốc không giảm giá một cách chính thức mà họ yêu cầu khách hàng đưa ra giá mua, điều này có nghĩa là họ sẽ cân nhắc để hạ giá. Chào giá Trung Quốc cho thép cuộn SAE nhìn chung là 405-410 USD/tấn CFR Việt Nam.