Thị trường tấm mỏng Mỹ ổn định
Sau khi giảm nhẹ hồi đầu tuần, giá HRC Mỹ ổn định trong ngày thứ ba do thị trường xáo trộn giữa một bên các nhà máy giữ chào giá ở mức 620 USD/tấn còn bên kia sẵn sàng bán giá thấp.
Platts duy trì giá HRC Mỹ hàng ngày ở mức 615.25 USD/tấn vào hôm thứ ba nhưng so với thứ sáu tuần trước, giá giảm 4.25 USD/tấn.
Một trung tâm dịch vụ cho biết các nhà máy trong nước đang giữ giá chào ở mức 620 USD/tấn cho HRC nhưng cũng có người thấy giá chào thấp 600 USD/tấn từ vài nhà máy. Các giao dịch chốt trong khoảng 600-620 USD/tấn trong 10 ngày qua.
Giá 600 USD/tấn đang là giá sàn lúc này do vài nhà máy cạnh tranh bán hàng. Hồi giữa tháng trước, các nhà máy Mỹ cho biết sẽ tăng giá giao dịch thép dẹt thêm 40 USD/tấn hoặc thiết lập giá tối thiểu.
Một trung tâm dịch vụ cho biết nhiều nhà máy nói rằng quá trình giao hàng tháng 12 sẽ kết thúc nhanh chóng dựa vào bảo trì nhà xưởng ở vài nhà máy và gánh nặng đơn hàng ở các nhà máy khác.
Trong khi đó, Platts giảm giá CRC hàng ngày xuống 25 cents/tấn còn 804.25 USD/tấn trong ngày thứ ba.
Một nhà máy Mỹ đang bán hơn 250 tấn CRC tại mức 790 USD/tấn nhưng số khác đặt mục tiêu giao dịch trên 800 USD/tấn.
Giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ tăng dù khối lượng giao dịch thấp
Giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ tăng nhưng hoạt động giao dịch chậm do giá chào nhập khẩu cao hơn giá nội địa trong vài trường hợp.
Một thương nhân cho biết chào giá nhập khẩu không thu hút và bất thường trong năm nay. Một người mua cho biết nguồn cung thép có sẵn của các nhà máy đang tăng. Họ không giảm giá nhưng cũng đang cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Trong nửa đầu năm nay, Mỹ nhập khẩu 939.889 tấn thép cây. Trong Q3 năm 2017 Mỹ nhập khẩu 305.932 tấn thép cây, giảm hơn 50% so với mức 618.637 tấn Q3/2016.
Dựa vào giá nhập khẩu tăng, Platts tăng giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ lên 524-533 USD/tấn CIF Houston từ mức 514-533 USD/tấn.
Platts vẫn duy trì giá thép cây Southeast Mỹ tại mức ổn định 550-570 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy thép cây Nam Âu đặt mục tiêu tăng giá
Các nhà máy thép cây Nam Âu đặt mục tiêu tăng giá dựa vào chi phí phế tăng và đơn hàng tốt.
Việc công bố giấy phép nhập khẩu từ Algeria cũng như tiêu thụ mạnh hơn ở Nam Âu có lợi cho các nhà máy Châu Âu nói chung và Ý và Tây Ban Nha nói riêng đang bán mạnh vào Đức và Pháp trước khi giá tăng. Giá phế tăng 5-10 Euro/tấn cũng giúp người bán lạc quan hơn.
Tuy nhiên, vấn đề vẫn còn sau khi Chính phủ Algeria công bố quy định nhập khẩu mới yêu cầu các nhà nhập khẩu phải có khoản tiền tạm ứng tại ngân hàng bằng 120% tổng giá trị lô hàng nhập khẩu vào thời điểm đăng ký.
Một khi hai bên đồng ý giao dịch thì các nhà xuất khẩu phải đợi ít nhất 30 ngày trước khi vận chuyển hàng hóa.
Theo một thương nhân Châu Âu thì đây là cách để ngân hàng Algeria có thanh khoản. Do chính phủ Algeria yêu cầu các nhà nhập khẩu phải có tiền tạm ứng trong ngân hàng tương đương 120% giá trị lô hàng trước khi giao dịch nên sẽ thu được nhiều tiền mặt.
Trong khi đó, việc các thương nhân và nhà máy Châu Âu cố gắng giao hàng đúng thời điểm sẽ làm gia tăng chi phí vận chuyển.
Giá thép cây được chào bán tại mức 490 Euro/tấn FOB trong ngày thứ ba, với phí vận chuyển 22-23 Euro/tấn cũng như lợi nhuận thương nhân và chi phí sản xuất (4-5 Euro/tấn và 2-3 Euro/tấn).
Kardemir hưởng ứng tăng giá thép xây dựng
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép xây dựng trong nước, chủ yếu do đồng Lira mất giá so với dolla.
Kardemir tăng giá thép thanh tròn lên 2.047 TRY/tấn (530 USD/tấn) và thép cây lên 22.030 TRY/tấn (526 USD/tấn) xuất xưởng, cùng tăng 93 TRY/tấn (24 USD/tấn) so với giá niêm yết ngày 18/10.
Công ty cũng tăng mạnh giá thép dây thêm 160 TRY/tấn (41 USD/tấn) lên 2.220 TRY/tấn (575 USD/tấn) xuất xưởng cho thép dây dạng lưới 5.5mm trong khi thép dây 6-32mm tăng lên 2.160-2.175 TRY/tấn (559-563 USD/tấn) xuất xưởng.
Công ty cũng chào bán thép hình và góc với giá cao hơn. Giá cho tất cả các sản phẩm thép hình tính theo đồng Lira tăng mạnh thêm 120 TRY/tấn (31 USD/tấn) so với giá niêm yết trước. Công ty tăng giá thép IPE-IPN-UPNs 160-300mm lên 2.160 TRY/tấn (560 USD/tấn) xuất xưởng. Giá cho IPE-IPN-UPN 320-550mm tăng lên 2.230 TRY/tấn (578 USD/tấn) trong khi giá cho HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm tăng cùng mức lên 2.175 TRY/tấn (563 USD/tấn), 2.250 TRY/tấn (583 USD/tấn) và 2.325 TRY/tấn (602 USD/tấn).
Kardemir cũng tăng giá thép góc cùng mức: loại 150x15mm tăng lên 2.285-2.335 TRY/tấn (592-605 USD/tấn) và 180x18mm tăng lên 2.415 TRY/tấn (625 USD/tấn). Giá chưa tính 8% VAT.
Nhà máy lớn khác là Bastug Metalurji tăng giá thép cây thêm 20 TRY/tấn (5 USD/tấn), đạt mức 2.400 TRY/tấn cho loại 12-32mm. Gía cho thép cây 10mm tăng lên 2.410 TRY/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm tăng lên 2.420 TRY/tấn xuất xưởng có thuế.
NSSC tăng giá CRC và tấm dày không gỉ
Nippon Steel & Sumikin Stainless đã quyết định tăng giá CRC và tấm dày không gỉ tháng 11 do chi phí hợp kim tăng.
Giá của nhà máy cho CRC và tấm dày không gỉ tăng 15.000 Yên/tấn (131 USD/tấn) trong khi CRC Ferrite tăng 5.000 Yên/tấn.
Các quan chức NSSC vẫn chưa đưa ra bàn luận gì thêm nhưng nhà máy trước đó có cho biết, giá trung bình niken tháng 9-tháng 10 đã tăng 0.11 USD/lb so với tháng 8-9, lên 5.12 USD/lb. Do đồng Yên giảm so với dolla trong tháng 9-tháng 10 nên nhà máy phải tăng 15.000 Yên/tấn cho tấm dày và CRC austenitic.
Đối với CRC Ferrite, giá trung bình của ferrochrome trong tháng 9-tháng 10 tăng 14.5 cents/lb lên 132.5 cents/lb so với tháng 8-tháng 9. Điều này cộng với đồng Yên suy yếu dẫn tới quyết định tăng giá thêm 5.000 Yên/tấn theo công thức phụ phí.
NSSC không công bố giá niêm yết nhưng giá thị trường cho tấm cán nguội 304 dày 2mm ở Tokyo là 340.000 Yên/tấn (2.975 USD/tấn) và tấm cán nguội 430 dày 2mm là 270.000 Yên/tấn (2.362 USD/tấn). Giá cho tấm dày 304 trên 7mm ở Tokyo là 510.000 Yên/tấn (4.462 USD/tấn), không đổi so với tháng trước.
Một thương nhân thép không gỉ ở Tokyo cho biết nhu cầu tiêu thụ CRC và tấm dày không gỉ ổn định và cán cân cung-cầu thắt chặt. Các đơn hàng tấm cán nguội austenitic và ferritic của các trung tâm dịch vụ Nhật trong tháng 9 tăng 1.5% so với cùng kỳ năm ngoái và 13.6% so với tháng 8, còn 57.409 tấn.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định theo thị trường nội địa
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc vẫn ổn định vào hôm qua, do cả bên mua và bán đều rút lui khỏi thị trường trước bối cảnh thị trường thiếu động lực hỗ trợ. Platts duy trì giá xuất khẩu thép cây BS500 16-20mm tại mức 516-517 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Tại Singapore, giá chào thép cây 10-32mm từ Trung Quốc ở mức 535 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 1. Giá tương đương mức 533 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 18 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.
Người mua có thể cân nhắc đặt hàng khi giá giảm dưới 510 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết (507 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một đơn hàng thép cây Ấn Độ chốt ở mức 505 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết vào hôm thứ ba. Giá thấp hơn cho các đơn hàng giao nhanh và thiếu các thép thông số kỹ thuật nhỏ.
Một nhà môi giới Hồng Kông cho biết thép cây 10-40mm Ấn Độ và Qatari chào bán ở mức 517 USD/tấn và 518 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 12.
Các nhà máy Trung Quốc do dự giảm giá chào trước sự biến động của giá nội địa. Hai nhà máy xuất khẩu lớn giữ chào giá ổn định ở mức 525 USD/tấn FOB và 530 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 541 USD/tấn và 546 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 3% chênh lệch khối lượng.
Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc ổn định trong bối cảnh giá nội địa tăng
Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc ổn định trong ngày thứ hai (06/11) sau khi giảm 2 tuần liên tiếp. Giá nội địa tăng nhẹ hỗ trợ giá xuất khẩu.
Platts duy trì giá xuất khẩu CRC SPCC 1.0mm Trung Quốc tại mức 588-590 USD/tấn FOB Trung Quốc. Chênh lệch giá xuất khẩu HRC và CRC là 44 USD/tấn.
Trong cùng ngày, giá CRC nội địa Trung Quốc tăng 35 NDT/tấn so với tuần trước lên 4.670-4.690 NDT/tấn (705-708 USD/tấn). Một thương nhân cho biết rất khó để giá tăng mạnh dựa vào tiêu thụ thấp nhưng tồn kho thấp sẽ ngăn giá không giảm sâu.
Một thương nhân cho hay sẽ giữ tồn kho ở mức thấp nhất có thể vào mùa đông này, với lợi nhuận các nhà máy rất cao và sẽ rủi roc ho thương nhân mua hàng khi giá cao.
Trong ngày thứ ba, giá chào xuất khẩu từ vài nhà máy lớn là 600 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước. Theo vài thương nhân, giá chốt CRC tuần trước ở mức 580 USD/tấn FOB từ một nhà máy lớn Trung Quốc do thiếu đơn hàng.
Một thương nhân cho biết đang chào mua CRC tại mức 580 USD/tấn FOB nhưng bị từ chối và người bán yêu cầu giá trên 590 USD/tấn FOB.
Một thương nhân nữa cho hay các biện pháp kiểm soát ô nhiễm tại miền bắc Trung Quốc sẽ giúp sản lượng thép dẹt giảm nhanh hơn so với sức mua, nhưng không ai chắc chắn về mức cắt giảm sẽ thế nào kể từ ngày 15/11.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định do các nhà máy từ chối giảm giá
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định trong bối cảnh đơn hàng thấp do nhu cầu tiêu thụ im ắng.
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu HRC SS400 3.0mm Trung Quốc tại mức 544-546 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá xuất khẩu tới Đông Á cũng ổn định ở mức 554-556 USD/tấn CFR Đông Á.
Giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải giam 50 NDT/tấn so với hôm thứ ba còn 4.020-4.040 NDT/tấn (606-609 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Một nhà máy lớn ở đông bắc giữ giá chào tại mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc, bằng với tuần trước. Thêm vào đó, các nhà máy khác vẫn giữ nguyên chào giá trong 2 tuần qua.
Một chào mua trong ngày thứ ba cho tấm cắt ở mức 540 USD/tấn FOB Trung Quốc từ Nam Mỹ nhưng không có giao dịch.
Chào giá từ các thương nhân cho thép cuộn SAE1006 từ một nhà máy ở đông bắc Trung Quốc tại mức 560-570 USD/tấn CFR Việt Nam. Một nhà máy ở phía đông giữ giá chào ổn định ở mức 565 USD/tấn CFR Việt Nam từ đầu tháng 11.
Các nhà cán lại và sản xuất ống thép cho biết đã có đủ hàng dự trữ nên không vội mua. Nhiều người cho biết hàng dự trữ của họ đủ để sản xuất tới tháng 1 năm sau.
Giá phôi thanh CIS tiếp tục giảm do các nhà máy tăng cạnh tranh giá
Giá xuất khẩu phôi thanh CIS tiếp tục giảm vào hôm qua do các nhà máy CIS tăng cạnh tranh để bán hàng.
Giá phôi thanh giảm mạnh so với phế và thép nên tiêu thụ từ Thổ Nhĩ Kỳ tăng.
Một đơn hàng phôi thanh Nga chốt ở mức 482 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ. Một lô khác từ Ukraina được đặt ở mức 475 USD/tấn CIF Iskenderun (tương đương dưới 460 USD/tấn FOB). Hai nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá này quá thấp và sẽ không còn nữa. Một thương nhân Nga cho biết các đối thủ ông đang chào giá thấp 450 USD/tấn FOB dù chưa có thông tin xác nhận.
Vài thương nhân dự báo giá thị trường giảm xuống dưới 460 USD/tấn FOB nhưng một thương nhân Châu Âu cho biết đang chào mua ở mức 455 USD/tấn FOB và bị từ chối sau khi đã mua 15.000 tấn phôi thanh 125mm tuần trước tại mức 460 USD/tấn FOB xuất tới Ai Cập.
Một thương nhân cho biết các nhà máy CIS đang tăng cạnh tranh, gây áp lực cho phôi thanh Iran. Chào giá từ Iran ở mức 450 USD/tấn FOB nhưng ít thu hút hơn so với CIS. Phôi thanh Iran thường rẻ hơn CIS ít nhất 10 USD/tấn.
So với Biển Đen, thị trường xuất khẩu Nga cho thấy dấu hiệu suy yếu nhẹ hơn.Một nhà máy cho biết chào giá ở mức 485 USD/tấn FOB Vladivostok, theo một thương nhân thấp hơn tuần trước 5 USD/tấn.
Trong ngày thứ ba, Platts giảm giá phôi thanh Biển Đen xuống 5 USD/tấn còn 460 USD/tấn FOB.