Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 08/12/2014

Giá quặng sắt ổn định trở lại sau khi giảm vào giữa tuần trước

Giá giao ngay của quặng sắt nhập khẩu nhìn chung không đổi so với tuần trước đó ngoại trừ sự sụt giảm vào giữa tuần xuống dưới mức 70 USD. Sức mua bị hạn chế bởi tín dụng tiếp tục bị siết chặt do ngân hàng vẫn còn thận trọng về việc mở rộng tài chính cho một lĩnh vực chứa đựng rủi ro và nguồn cung lớn như thép.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá 62% Fe Iron Ore Index là 71,25 USD/dmt CFR Trung Quốc, không đổi so với tuần trước nhưng lại đánh dấu sự phục hồi nhẹ từ dưới 70 USD/dmt cho hai ngày trong tuần. 62% Fe tại The Steel Index cuối tuần trước được chốt ở mức 70,9 USD/dmt CFR, tăng từ mức 69,8 USD/dmt của cuối tuần trước đó.

Các thương nhân bị sức ép khó khăn bởi ngân hàng tìm cách thu hồi nợ nhưng chào giá thấp hơn của  họ không thu hút người mua.

Tuy nhiên, sự phục hồi trên thị trường bất động sản ở Trung Quốc dẫn đến giá hợp đồng kỳ hạn của thép cây, quặng sắt tăng và quặng sắt giao ngay bật tăng lên hơn 70 USD/dmt do các nhà máy nhìn thấy mức giá thấp như là một cơ hội để tích trữ thêm nguyên liệu. 

Người mua thép cuộn Mỹ dùng chiến lược đánh bại giá tăng

Với triển vọng giá thép tấm tăng, có ít nhất một người mua thép tấm Mỹ dự định sẽ dập tắt tia hy vọng tăng giá Q1 của các nhà máy.

Một trung tâm dịch vụ tại Midwest tin rằng các nhà máy đang cố gắng giữ giá để chờ tới khi hàng tồn kho cạn kiệt trước khi nhu cầu tiêu thụ Q1 tăng.

Để tránh phải trả giá cao hơn hoặc giao dịch với thời gian giao hàng dài, một trung tâm dịch vụ cho biết Ông đang yêu cầu các khách hàng của Ông đưa ra dự báo trong tuần tới hoặc sau đó nữa. Một khi người mua đặt hàng, Ông sẽ bắt đầu mua hàng vào.

Trong khi đó, các nhà tiêu thụ cuối dường như đang trì hoãn đơn hàng với hy vọng rằng giá giao ngay HRC giảm dưới định mức 620-630 USD/tấn của Plattsbvaf 750-760 USD/tấn cho CRC xuất xưởng Midwest. 

Tuy nhiên, thời gian không cho phép giá HRC giảm hơn nữa vì thời gian giao hàng đã mở ra tới tháng 1. Hơn thế nữa, thời gian giao CRC gần tới cuối tháng 1.

Giá ferrochrome được nhập khẩu giảm ở Trung Quốc 

Platts định giá ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) của Ấn Độ là 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc, giảm từ 82-84 cents/lb CIF của một tuần trước, căn cứ theo giá mua cao nhất và chào giá thấp nhất được nghe nói trên thị trường trong tuần trước.

Không có giao dịch nào có thể được xác nhận trong tuần trước. Giá mua được nghe nói là 78-81 cents/lb CIF trong khi chào giá tại 82-87 cents/lb CIF.

Khó mà chốt được hợp đồng trong tuần trước do giá ở Trung Quốc vẫn còn dưới chào giá ở nước ngoài mặc dù đã phục hồi gần đây.

Hôm thứ tư tuần trước, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) là 6.350-6.450 NDT/tấn (tương đương 78.5-79.5 cents/lb).

Một số nhà cung cấp Ấn Độ khẳng định rằng họ có ít nguyên liệu để bán do nguồn cung vẫn còn hạn chế vì cắt giảm sản lượng ở trong nước. Tuy nhiên, số khác vẫn đang tìm cách xuất khẩu do nhu cầu trong nước chậm và đồng Rupee suy yếu so với đô la Mỹ.

Trong khi đó, giá giao ngay của quặng chrome xuất xứ Nam Phi (48-52% Cr) được chốt với giá không đổi so với tuần trước tại mức 78-80 cents/lb CIF hôm thứ Sáu.

Có tin đồn về một giao dịch từ một nhà sản xuất thép không gỉ lớn với giá 78.5 cents/lb CIF nhưng điều này không thể xác nhận với nhà máy. Nhiều người cho biết giá có thể giao dịch cho quặng chrome ở mức 78-80 cents/lb CIF.

Yêu cầu cho quặng chrome và ferrochrome Ấn Độ trong tuần này gia tăng nhưng giá kỳ vọng của người mua ít thay đổi do giá trong nước vẫn còn thấp mặc dù gần đây có sự phục hồi.

Nhu cầu cho nguyên liệu nhập khẩu có thể tăng nếu như nguồn cung trong nước vẫn tiếp tục khan hiếm và giá tăng. Một số người nhấn mạnh rằng nguyên liệu giao ngay trong nước có giá dưới 6.400 NDT/tấn (79 cents/lb) đã trở nên khó hơn để thực hiện trong tuần trước. 

Thị trường phế khối lượng lớn Bờ Tây Mỹ trầm lắng, giá phế khối lượng nhỏ bình ổn

Xu hướng giá thị trường phế xuất khẩu Bờ Tây Mỹ không rõ ràng trong tuần qua do không có đơn hàng phế khối lượng lớn nào được chốt tới thị trường Đông Á trong tuần thứ 4 liên tiếp và giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ vẫn bình ổn.

Các nhà máy nhập khẩu trong khu vực không quan tâm tới việc chào mua các đơn hàng lớn trong khi không có giá chào nào từ các nhà cung phế Mỹ. Platts định giá phế HMS 80:20 nhập khẩu tại mức 300-310 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu, không đổi so với tuần trước đó.

Giá phế khối lượng nhỏ vẫn ở mức  285-290 USD/tấn CFR Đài Loan mặc dù có ít giá chào hơn từ các nhà máy Mỹ do nguồn cung phế thắt chặt.

Các nhà buôn phế Bờ Tây chốt phế tháng 12 tại mức giá không đổi so với tháng 11. Nguồn cung phế đã giảm trở lại tại Mỹ và các vấn đề tại cảng đã làm sụt giảm mạnh nguồn cung tại đây, tuy nhiên, giá phế khối lượng nhỏ vẫn chưa thể tăng trên mức 290 USD/tấn CFR Đài Loan. 

Các nhà máy Đài Loan tăng giá mua phế Nga và Nhật Bản trong thời gian gần đây trong khi giảm mua phế từ Mỹ. Một nhà máy Đài Loan đã mua 5.000 tấn phế A3 Nga tại mức 305 USD/tấn CFR tuần qua.

Chào giá trái chiều ở thị trường thép cuộn không gỉ Châu Á 

Hôm thứ Sáu, Platts định giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.450-2.500 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á và Đông Nam Á, không đổi so với tuần trước do chưa có định hướng giá rõ ràng trong bối cảnh chào giá trái chiều trên thị trường.

Chào giá từ Đài Loan được nghe nói trong phạm vi từ 2.370-2.700 USD/tấn CFR hồi tuần trước. Một số nhà cung cấp đã nâng giá và giữ chào giá của họ trong tuần trước sau khi các nhà sản xuất thép không gỉ của Đài Loan thông báo tăng giá bán tháng 12 ở trong nước và xuất khẩu tháng 01. Một thương nhân cho biết bà đang chào giá cỡ 2.700 USD/tấn CFR, phù hợp với động thái tăng giá của Yieh United Steel Corp (Yusco) bắt đầu từ tháng 12.

Một thương nhân ở Đài Bắc cho biết công ty bà đã duy trì chào giá và giá giao dịch ở mức 2.450-2.500 USD/tấn CFR, không đổi so với một tuần trước đó do các khách hàng vẫn còn thận trọng với việc thu mua của mình.

Một thương nhân ở Hong Kong cho biết nhà cung cấp của ông đã giảm chào giá xuống 30 USD/tấn trong tuần trước và có thể chấp nhận bán với giá 2.370 USD/tấn CFR Hong Kong do tình hình thị trường suy yếu. Tuy nhiên, hôm thứ sáu chào giá này không còn do giá niken sụt giảm vào cuối tuần trước đó.

Một thương nhân ở miền nam Đài Loan đã không chào bán trong tuần trước nhưng ông cho biết sẽ rất vui để bán với giá 2.450-2.460 USD/tấn CFR, ông này đã từng đã bán với giá 2.500 USD/tấn CFR Đông Nam Á trong hai tuần trước đó. Giá giao dịch không tăng trong tuần qua mặc dù các nhà máy thông báo tăng giá.

Chào giá từ Hàn Quốc nghe nói là 2.500-2.550 USD/tấn CFR trong tuần trước, không đổi so với tuần trước đó. Nhu cầu cho CRC Hàn Quốc vẫn còn trì trệ.

Trong khi đó chào giá cho CRC loại 304 2mm của Nhật được nghe nói khoảng 2.600 USD/tấn CFR trong tuần trước. 

Các nhà máy EAF ngưng sản xuất để duy trì giá phế Ý bình ổn

Giá phế tại thị trường nội địa Ý dự báo bình ổn trong tháng 12 sau khi giảm mạnh 15-20 Euro/tấn trong tháng 11.

Trong khi thị trường ngoài nước vẫn bình ổn, các nhà máy EAF Ý dự báo bắt đầu ngưng sản xuất 3-4 tuần trong những ngày tới để giảm sản lượng và tận dụng thuận lợi lễ giáng Sinh. Các nhà máy ngưng sản xuất để giảm tiêu thụ phế mặc dù gần đây nhu cầu tiêu thụ có tăng nhẹ.

Giá phế vụn E40 tháng 11 đạt mức 250 Euro/tấn giao tại Ý với phế phái sinh E8 đạt mức 245-250 Euro/tấn đã tính phí giao hàng và phế E3 đạt mức 225 Euro/tấn đã tính phí giao hàng. Các giá này dự báo tiếp tục trong tháng 12. 

Ruggero Alocci, một nhà quan sát thị trường cho biết trong khi hầu hết các nhà máy thép dài đều ngưng sản xuất, Arvedi, nhà cung cấp thép dẹt EAF duy nhất vẫn tiếp tục sản xuất trong lễ giáng Sinh. 

Giá ống đúc miền đông Trung Quốc tiếp tục đi ngang do sức mua suy yếu 

Thị trường ống đúc giao ngay ở Thượng Hải vẫn chìm trong ảm đạm trong suốt tuần trước giữa bối cảnh sức mua suy yếu và giá thép tròn đặc ổn định.

Hôm 05/12, tại Platts giá ống đúc loại 20 # 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc vẫn duy trì ở mức 3.600 NDT/tấn (585 USD/tấn) gồm VAT 17% ở Thượng Hải, không đổi so với tuần trước.

Sức mua từ các lĩnh vực như chế tạo máy móc và xây dựng gần đây đã thu hẹp lại hơn nhiều do mùa đông đến. Một thương nhân dự đoán giá giao ngay của ống đúc sẽ vẫn ổn định trong thời gian ngắn nếu giá thép tròn đặc vẫn không đổi. Nhưng ông sợ sức mua suy yếu hơn trong mùa đông có thể sẽ khiến giá trong nước giảm trong thời gian ngắn hơn.

Các nhà sản xuất thép tròn đặc ở miền đông hôm 01/12 cho biết họ sẽ duy trì giá thép tròn đặc 20# từ ngày 01-10/12.

Đặc biệt, giá thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel- hai nhà sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô- vẫn còn lần lượt là 3.120 NDT/tấn và 3.070 NDT/tấn gồm VAT.

Trong khi đó, giá của loại thép tròn đặc này được cung cấp bởi Huaigang Special Steel ở Giang Tô và Weifang Special Steel ở Sơn Đông không đổi ở mức lần lượt là 3.100 NDT/tấn và 2.780 NDT/tấn bao gồm VAT.

Các nhà máy thép này đã duy trì giá bán của họ không đổi kể từ ngày 11/11. 

Giá trung bình thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tháng 10 giảm

Sản lượng thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức 665.081 tấn do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu trì trệ trong bối cảnh đồng Lira suy yếu so với dolla.

Giá bán trung bình giảm 10 USD/tấn so với tháng trước đó, còn 558.7 USD/tấn FOB.

Các nước Trung Đông và Bắc Phi, các nhà nhập khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ lớn nhất tháng 10, mặc dù các lô hàng chính tới các thị trường chính Iraq tiếp tục giảm.

UAE  đứng đầu danh sách nhập khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tính cho tới nay, mua 181.412 tấn trong khi xuất khẩu thép cây tới Mỹ vẫn  không đổi tại mức 72.682 tấn trong tháng 10.

Xuất khẩu thép cây tới Oman và Ai Cập đạt mức tổng cộng 42.772 tấn và 36.280 tấn trong khi Thổ Nhĩ Kỳ vận chuyển 35.596 tấn thép cây tới Israel tháng 10.

Xuất khẩu thép cây tới Iraq tiếp tục giảm trong tháng 10, còn 34.432 tấn, thấp hơn 50% so với tháng trước đó do bất ổn ISIS. 

Các nhà nhập khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 10 là Peru với 28.152 tấn, Ả Rập Saudi với 20.269 tấn, Yemen với 25.691 tấn, Kuwait với 24.850 tấn, Brazil với 19.055 tấn, Ethiopia với 18.894 tấn, Colombia với 11.562 tấn, Costaria với 11.281 tấn và Syria với 10.083 tấn.

Hegang giảm vận chuyển thép tới Bắc Kinh để hỗ trợ giá 

Hebei Iron & Steel Group (Hegang), tập đoàn sản xuất thép lớn nhất của Trung Quốc, áp dụng mức giá sàn mới cho thép xây dựng hôm thứ Sáu và công ty sẽ chuyển hướng sang vận chuyển nhiều thép hơn tới miền nam và miền đông với nỗ lực nhằm hỗ trợ cho giá ở Bắc Kinh.

Trong một thông báo tới các đại lý Bắc Kinh, Hegang cho biết tất cả các sản phẩm thép xây dựng phải được bán từ 2.700 NDT/tấn (439 USD/tấn) trở lên tính theo trọng lượng lý thuyết, gồm VAT 17%, áp dụng ngay lập tức. Nhà máy này nhấn mạnh rằng giá hợp đồng cho tháng này sẽ không thấp hơn mức này.

Cũng trong thông này, Hegang cho biết công ty dự định sẽ giảm 150.000 tấn nguồn cung tới Bắc Kinh trong tháng 12 để giữ giá trong nước ở đó.

  Platts đã xác nhận tính xác thực của thông báo này với Hegang. Sản lượng dôi ra từ việc cắt giảm nguồn cung sẽ được phân bổ đến miền đông và miền nam. Trong tháng 11, tập đoàn này đã vận chuyển khoảng 80.000 tấn thép tới đó, và thêm 20.000 tấn xuống phía nam.

Cũng trong thông báo này, Hegang cho biết các nhà máy khác như Jingye Iron & Steel, Xinxing Ductile Iron Pipes và Lingyuan Iron & Steel sẽ tham gia cắt giảm nguồn cung tới thị trường Bắc Kinh xuống khoảng 50.000 tấn trong tháng này.

Trước lúc đưa ra thông báo, không có đại lý lớn nào được nghe nói là đã làm theo quyết định nâng giá của nhà máy. Trong tuần cuối cùng của tháng 11, nguồn cung thiếu hụt khiến giá giao ngay ở Bắc Kinh tăng 120 NDT/tấn; nhưng lượng thép mới về khiến giá bắt đầu giảm trong tuần trước.

Cung và cầu sẽ quyết định liệu giá có tăng hay không. Một nguồn tin từ nhà máy ở miền bắc nghi ngờ liệu Hegang có thể thành công trong kế hoạch hỗ trợ giá cho Bắc Kinh hay không vì sức mua đang trầm lắng ở miền bắc. Ông ghi nhận rằng nhà máy của ông đã ngưng sản xuất thép cây do thiếu vắng nhu cầu.

Giá giao ngay ở Bắc Kinh cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm giảm 30 NDT/tấn hôm 05/12 còn 2.650-2.680 NDT/tấn trọng lượng thực tế và gồm VAT. So với tuần trước, giá giảm 70 NDT/tấn. 

Giá xuất khẩu thép thanh thương phẩm Thổ Nhĩ Kỳ giảm, giá thép cây ổn định

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá chào thép thanh thương phẩm xuất khẩu xuống 10-15 USD/tấn trong tuần qua, còn 545-555 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 1, do nhu cầu tiêu thụ suy yếu tại các thị trường xuất khẩu chính trước Năm mới.

Mặc dù giá chào từ Trung Quốc tới các thị trường chính của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục gây áp lực lên giá chào bán của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, giá chào từ các nhà máy Thổ Nhĩ kỳ vẫn bình ổn tại mức 490 USD/tấn FOB trong khi nhu cầu tiêu thụ vẫn suy yếu. Gía chào cuộn trơn đạt mức 505-515 USD/tấn FOB.

Với giá phế, phôi thanh nhập khẩu và trong nước duy trì bình ổn trong mấy ngày gần đây theo sau sự suy giảm mạnh trong tháng 11.

Trong khi đó, giá phôi thanh chuẩn hiện vẫn dao động trong khoảng 430-440 USD/tấn xuất xưởng tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ trong khi giá chào từ CIS chỉ giảm 2 USD/tấn tuần này xuống mức 418-425 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu.

Giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ giảm kéo giá CRC suy yếu

Giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm 20 USD/tấn so với tuần trước theo  sau sự suy yếu của giá HRC trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trì trệ trước Năm mới.

Giá CRC từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hiện chốt tại mức 640-650 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá giao dịch chốt tại mức thấp 630-640 USD/tấn đã có chiết khấu.

Giá chào CRC CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm 20-25 USD/tấn so với giữa tháng 11. Các nhà máy Ukraina chào bán CRC ở mức 560-570 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ đối với các lô hàng tháng 1 trong khi giá chào từ Nga tăng 15-20 USD/tấn.

Các nhà máy không muốn bước nào Năm mới với hàng tồn kho cao, do đó, thật khó để xác định xu thế thị trường mùa đông. Hầu như người mua đều hoãn lại các đơn hàng, gây áp lực tới giá chào bán. Theo dự báo thì nhu cầu tiêu thụ sẽ hồi phục trong Q1/2015, song với giá nguyên liệu thô tăng và hàng tồn CRC đối với vài mặt hàng thấp thì cho tới Q2, thị trường mới có bước hồi phục đáng kể. 

Trong khi đó, giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã bình ổn lại trong mấy ngày gần đây sau khi giảm xuống mức thấp 530 USD/tấn đã có chiết khấu.  Gía HRC từ các nhà máy trong nước đạt mức 535-540 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ sáu trong khi giá xuất khẩu là 520-530 USD/tấn FOB.

Giá thép tấm Nhật Bản ổn định 

Nhu cầu thép tấm dày ở Nhật được cho là sẽ tăng từ đầu năm tới với sự gia tăng trong việc xây dựng dân sự từ các dự án cơ sở hạ tầng và tòa nhà liên quan đến  Tokyo Olympic Games 2020. Nhưng giá vẫn chưa phản ánh sự phục hồi.

Giá thị trường hiện nay cho thép tấm loại SS dày 19 mm (1.524 x 3.480 mm) ở Tokyo là 84.000-86.000 Yên/tấn (701-718 USD/tấn). Những loại thép tấm không phải loại thương phẩm, đây là loại không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của Cơ quan Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản, có giá khoảng 81.000-83.000 Yên/tấn, cả hai đều không đổi trong gần một năm.

Nhu cầu thép tấm từ những khách hàng dài hạn chẳng hạn như các nhà máy đóng tàu và chế tạo máy móc gia tăng, nhờ đơn hàng xuất khẩu tốt hơn do Yên Nhật suy yếu. Nhu cầu thép tấm xây dựng dường như cũng tăng một cách tương tự, nhưng các khách hàng chỉ tiếp tục mua khối lượng nhỏ vì sợ sự chậm trễ trong các dự án xây dựng sẽ tiếp diễn.

Một nhà phân phối khác ở Tokyo nhấn mạnh rằng Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá thép tấm xuống 3.000 Yên/tấn cho những hợp đồng tháng 11, điều này đã khuyến khích khách hàng tích cực tìm kiếm giá giảm giống vậy.

“Nhưng chúng tôi không đồng ý bởi vì dự đoán nhu cầu sẽ gia tăng và tình hình thị trường không điều chỉnh giảm giá”.

Nhiều dự án công trình dân sự theo kế hoạch là từ tháng 01 đến tháng 03 do chính quyền địa phương tận dụng hết sự phân bổ ngân sách cho năm tài khóa năm nay.

Sau khi tăng giá hồi tháng 11, Tokyo Steel đã giữ giá cho những hợp đồng tháng 12, vì vậy giá của nhà máy mini này cho thép tấm loại SS400 dày 9-40 mm (1.524 x 3.480mm) vẫn ở mức 72.000 Yên/tấn.

Theo số liệu gần đây nhất của Liên đoàn sắt thép Nhật Bản, đơn đặt hàng thép tấm được đặt  mua trong tháng 09 đạt 810.000 tấn, giảm 4% so với tháng 08 nhưng lại tăng 1% so với năm ngoái. 

Thép tấm và cuộn cán nóng Nga giảm theo giá phôi phiến

Với sự suy yếu mạnh của giá phế, giá HRC và thậm chí là thép tấm cán nóng (thường cao hơn giá HRC 600 Rub/tấn)  tính theo đồng dolla đã giảm theo giá xuất khẩu phôi phiến CIS.

Tại Maxcova, giá tấm cán nóng tháng 12 giao dịch tại mức 26.750-26.870 Rub/tấn (500-502 USD/tấn) đối với loại 2mm và 26.150-26.280 Rub/tấn (48491 USD/tấn) đối với loại 4mm đã tính phí giao hàng. Nếu không tính VAT 18%, các giá này tương đương mức 22.670-22.770 Rub/tấn (424-426 USD/tấn) và 22.160-22.270 Rub/tấn (414-417 USD/tấn) CPT Maxcova.

Mặc dù giá thép đã tăng 35 Rub/tấn (0.7 USD/tấn) so với tuần trước đó, song với sự suy yếu tiếp tục của đồng Rub đã kéo giá thép tính theo USD giảm 35 USD/tấn và hoàn toàn trùng khớp với giá phôi phiến CIS. Giá xuất khẩu phôi phiến CIS gần đây được chốt tại mức 410-425 USD/tấn FOB Biển Đen. 

Platts tăng giá tấm và cuộn cán nóng 2-4mm Nga lên mức 22.210-22.720 Rub/tấn (415-425 USD/tấn) và 21.610-22.120 Rub/tấn (404-414 USD/tấn) CPT Maxcova từ mức 22.180-22.700 Rub/tấn (450-460 USD/tấn tại mức tỷ giá ngày 28/11) và 21.580-22.100 Rub/tấn(437-447 USD/tấn) cách đây 1 tuần.

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ bị sức ép cuối năm 

Các thị trường xuất khẩu HDG Ấn Độ đang trở nên trầm lắng do sắp tới những ngày lễ cuối năm.

Giá giao dịch cho thép cuộn loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông vẫn duy trì ở mức 865-880 USD/tấn CFR Mỹ trong tuần trước. Mức giá này bao gồm phí vận chuyển 50-60 USD/tấn cho những lô hàng vận chuyển tháng 02.

Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ đã không nhận được đơn đặt hàng mới trong tuần trước mặc dù người bán giảm giá. Một thương nhân ở Mumbai cho biết một nhà máy ở Delhi đang chào giá cho HDG dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông là 855 USD/tấn, nhưng vẫn không tìm được người mua.

Thông thường, sức mua vẫn còn trì trệ cho đến sau tuần lễ Giáng Sinh ở phương Tây. Nhưng nhu cầu cho HDG Ấn Độ rất có thể sẽ phục hồi từ giữa tháng 01 trở đi.

Tương tự, nhu cầu HDG Ấn Độ vẫn còn trì trệ ở những thị trường xuất khẩu khác. Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ đã hạ chào giá HDG dày 0.3mm phủ 60-120 gram kẽm trên một mét vuông xuống còn 825-830 USD/tấn CFR Antwerp, để cạnh tranh với chào giá thấp hơn của Trung Quốc là 810 USD/tấn cho loại tương tự.

Tại Châu Âu, giá HDG Ấn Độ đã giảm khoảng 10-15 USD/tấn từ mức 840 USD/tấn trong tuần đầu tiên của tháng 11. Tuy nhiên, không có giao dịch nào được nghe nói tới.

Tương tự, người Ấn Độ đang chào giá ở Trung Đông cho HDG dày 0.3mm phủ 80-90 gram kẽm trên một mét vuông được nghe nói ở khoảng 830-840 USD/tấn, nhưng cũng không có giao dịch nào được thực hiện. 

Giá phế tháng 12 Mỹ chốt tại mức không đổi

Các nhà máy và các nhà cung phế Mỹ tại các khu vực chính đã bắt đầu thực hiện các giao dịch trong ngày thứ sáu với giá không đổi. Thung lũng Ohio có giá cao nhất do các thương nhân đã tăng giá giao dịch thêm 5-10 USD/tấn. Các thương nhân vẫn duy trì quan điểm tích cực về giá tháng 1 theo sau các đàm phán tháng 12.

Giá giao dịch tại các thị trường chính như Chicago, Cleveland, Detroit và Southeast không đổi. Các đàm phán tiếp tục tại thị trường Texas với giá được nghi bình ổn.

Platts định giá phế vụn tại mức 325 USD/tấn giao tại Midwest trong ngày thứ sáu.

Các thương nhân đồng tình rằng nguồn cung giới hạn đang đóng vai trò quan trọng trong tuần qua. Một vài nhà buôn phế đang kìm hàng với hy vọng giá tăng trong tháng 1 sau khi đã giảm liên tục kể từ tháng 10 và 11 với mức giảm tổng cộng 50 USD/tấn. Nguồn cung giảm đang giúp hỗ trợ giá để bù đắp lại nhu cầu tiêu thụ suy yếu.

Giá phế thép tấm và cấu trúc chốt tại thung lũng Ohio tại mức cao 355 USD/tấn trong khi phế vụn chốt tại mức 350 USD/tấn. Hồi đầu tuần này, các đơn hàng đã được chốt tại mức không đổi nhưng sau các đàm phán tuần qua, các giao dịch chốt tại mức cao hơn giá tháng 11 là 5-10 USD/tấn.

Một thương nhân khác đồng tình rằng với nguồn cung thắt chặt thì tệ nhất sẽ giúp giá bình ổn và hơn nữa là tăng 10-20 USD/tấn.

Trong khi nguồn cung phế cũ vẫn giảm mạnh thì dự báo trong tháng này và tháng 1 nguồn cung phế chất lượng cao sẽ tăng quá mức. 

Giá phôi thanh thấp làm hạn chế thị trường nhập khẩu Đông Á 

Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Á trì trệ trong tuần trước do chào giá từ Trung Quốc và Nga giảm. Tại Platts, định giá phôi thanh nhập khẩu vào Đông Á giảm còn 430-440 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu từ mức 440-450 USD/tấn CFR của tuần trước đó.

Chào giá phôi thanh lò nung của Trung Quốc giảm còn 420-430 USD/tấn CFR Đông Á so với 430-435 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Phôi thanh 150mm 5sp/ps của Nga được chào giá 440 USD/tấn CFR Koh Si Chang, Thái Lan trong suốt tuần trước. Mức giá này thấp hơn so với giao dịch phôi thanh 450 USD/tấn CFR vào hai tuần trước đó của Nga.

Các nhà cung cấp phôi thanh của Nga có thể sẽ chấp nhận mức giá thấp hơn 5-10 USD/tấn so với giá của tuần này do sự suy yếu của đồng Rúp. Một thương nhân  Bangkok cũng nhấn mạnh rằng không có sự quan tâm ở mức giá 440 USD/tấn CFR bởi vì các nhà cán lại đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thị trường thép cây ảm đạm ở Thái Lan. Một người khác cho biết nhiều người mua trong nước đang đặt mua phôi thanh Việt Nam với giá 430 USD/tấn Thái Lan nhưng ông không chắc liệu họ có thành công hay không.

Ở Philippines, phôi thanh lò nung của Trung Quốc giảm còn 430 USD/tấn CFR từ mức 440 USD/tấn CFR của tuần trước. Khoảng 30.000 tấn phôi của Trung Quốc vận chuyển cuối tháng 01 được đảm bảo ở mức giá này. Sự ùn tắc ở cảng Manila khiến những lô hàng phải mất 1 đến 2 tháng để neo đậu nên chi phí vận chuyển tăng lên khoảng 10 USD/tấn (dẫn đến tổng phí vận chuyển từ Trung Quốc lên cỡ 30 USD/tấn).

Sau khi 30.000 tấn phôi thanh Trung Quốc được chốt ở mức 430 Philippines, phôi thanh lò nung của Trung Quốc giảm còn 430 USD/tấn CFR từ mức 440 USD/tấn CFR Indonesia trong suốt tuần ngày 21/11. “Chênh lệch giữa phôi thanh Trung Quốc và không phải từ Trung Quốc đã thu hẹp lại, không giống như trước khi mà sự khác biệt về giá lớn hơn nhiều”.

Một nhà cán lại ở Jakarta cho biết phôi thanh Trung Quốc vận chuyển tháng 01 gần đây được chốt với giá 420 USD/tấn CFR. Vắng bóng người quan tâm mua bởi vì đồng Rupiah suy yếu và thị trường thép cây trong nước trầm lắng.