Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 08/6/2017

Các nhà máy thép không gỉ Trung Quốc chuyển hướng sang sản xuất HRC cacbon

Sự trì trệ của thị trường HRC Trung Quốc đã dẫn dắt nhiều nhà máy lớn gồm cả Shougang, Cangzhou Zhongtie và  Liuzhou Iron & Steel tiến hành bảo dưỡng nhà xưởng băng nóng kể từ cuối tháng 5 đến tháng 7. Lần bảo dưỡng này ước tính loại bỏ khoảng 530.000 tấn HRC khỏi thị trường.

Hơn thế nữa, do thị trường thép Trung Quốc đã bước vào mùa tiêu thụ thấp điểm nên nhiều nhà máy sẽ bảo dưỡng máy móc trước vài tuần.

Kế hoạch bảo dưỡng này cộng với mối ưa chuộng hiện tại cho thấy sản lượng thép dài sẽ cao hơn thép dẹt, nguồn cung HRC vẫn trên đà giảm. Sự sụt giảm này bắt đầu từ cuối tháng 4, mở rộng ra tới tháng này và cả tháng tới.

Tuy nhiên, một thương nhân Quảng Đông không lạc quan lắm về tình hình thị trường HRC. Bắt đầu từ đầu tháng 5, các nhà máy thép không gỉ được trang bị lò EAF và tiêu thụ phế đã chuyển từ sản xuất thép không gỉ sang HRC cacbon. Hầu hết các nhà máy không gỉ này có kích thước nhỏ với công suất 20.000-30.000 tấn/tháng.

Khó để ước tính quy mô số lượng các nhà máy dịch chuyển sang sản xuất HRC cacbon, nhưng đã có sản phẩm thép cacbon của họ trên thị trường. Phế giá rẻ giúp sản xuất HRC cacbon có lời hơn thép không gỉ.

Theo một thương nhân, giá phế nặng giao ngay hiện ở mức 1.300 NDT/tấn (191 USD/tấn) trong khi các chi phí cho các nhà máy thép cuộn và EAF khác để sản xuất HRC cacbon ít hơn 1.000 NDT/tấn. Hiện tại, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm của Lecong Steel ở mức 3.280 NDT/tấn tại thị trường Quảng Đông. 

Một chuyên gia công nghiệp cũng chú ý các các nhà máy thép không gỉ lớn ở miền nam và tây nam Trung Quốc đã bắt đầu sản xuất HRC cacbon kể từ tháng 5. Tuy nhiên, sản lượng quá nhỏ để được chú ý trên thị trường giao ngay. Họ vẫn sản xuất thép không gỉ như là sản phẩm chính của họ.

HRC Thượng Hải tăng nhờ tiêu thụ cải thiện

Giá giao ngay HRC Thượng Hải tăng ngày thứ hai liên tiếp, nhờ tiêu thụ tăng từ các nhà tiêu thụ cuối.

Platts tăng giá HRC Q235 5.5mm thêm 20 NDT/tấn, đạt mức 3.150-3.170 NDT/tấn (464-467 USD/tấn) xuất xưởng đã tính VAT. Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng tháng 10 chốt tăng 19 NDT/tấn, đạt mức 2.957 NDT/tấn.

Sau lễ hội thuyền rồng hồi cuối tháng 5, khối lượng thép giao dịch vẫn ít, nhưng rõ ràng có sự cải thiện trong 2 ngày qua. Ngoài ra, giá giao kỳ hạn tăng cũng giúp củng cố niềm tin trên thị trường giao ngay. 

Tồn kho thấp cũng hỗ trợ giá. Trong ngày 2/6, tồn kho HRC tại 33 thành phố lớn Trung Quốc đạt mức tổng cộng 2.75 triệu tấn, giảm 156.400 tấn so với tháng 5 mặc dù tăng 879.100 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.

Phế vụn tháng 6 giảm 10 USD/tấn tại Mỹ

Các nhà máy thép Mỹ đã hoàn thành việc mua phế tháng 6 vào hôm qua với giá phế vụn giảm 10 USD/tấn so với tháng 5 tại hầu hết các khu vực, trong khi phế cắt và chất lượng cao tại các khu vực đi từ ổn định tới giảm 10 USD/tấn.

Giá mua phế vụn giảm 10 USD/tấn hầu như khắp các nhà máy Mỹ, chỉ vài nhà máy ở Ohio và Southest có thể mua được giá giảm 15 USD/tấn.

Platts vẫn duy trì giá phế vụn Midwest Mỹ hàng ngày tại mức 290-300 USD/tấn đã tính phí giao hàng trong ngày thứ tư, giảm 10 USD/tấn so với tháng 5.

Vài nhà máy Midwest đang nỗ lực mua phế cắt với chất lượng cao giảm 10 USD/tấn dù bị kháng cự trong ngày thứ ba.

Một số nhà máy đã cố gắng mua phế vụn giảm 10 USD/tấn tại Detroit trong ngày đầu tuần trong khi các loại phế khác ổn định. Họ đã cố gắng mua phế cắt và chất lượng cao với giá giảm 10 USD/tấn nhưng không thành công.

Tại Midwest, giao dịch phế HMS ở mức 270 USD/tấn còn phế tấm và cấu trúc là 285-295 USD/tấn, trong khi phế chất lượng cao là 350-390 USD/tấn đã tính phí giao hàng. Chênh lệch phế chất lượng cao với phế cũ vẫn lớn từ đầu năm tới nay. Trong khi đó, chênh lệch giá phế chất lượng cao và phế vụn đã thu hẹp trong tháng 5 và chỉ mới tăng lại đối với vài nhà máy mua được giá giảm 10 USD/tấn với phế vụn còn phế chất lượng cao giá không đổi.

Thị trường phế đã có dấu hiệu chậm lại do các nhà máy đã hầu như chốt đơn hàng trong 2 ngày qua. Một nhà cung cấp cho hay, thị tường Midwest có phần suy yếu hơn ông nghĩ. Vài nhà máy thu mua ít hơn tháng 4 và 5.

Hầu hết các nhà máy Northeast đang trả 275 USD/tấn cho phế vụn tháng 6. Vẫn có vài giao dịch đang trong đàm phán ở phía Nam, chủ yếu là Texas.

Một người mua ở phía Nam cho rằng, phế cũ cũng giảm 10 USD/tấn. Hầu hết các nhà máy đang cố gắng mua phế chất lượng cao với giá giảm 10 USD/tấn.

Tại Southeast, phế vụn ở mức 290 USD/tấn còn phế bundles số 1 bán tại mức 350-360 USD/tấn. Một nguồn cung Southest nghĩ rằng giá khả năng sẽ ổn định trong tháng 6 do các nhà máy đã hoàn thành chương trình thu mua của mình. 

Tại Souhtheast, giá các loại phế ổn định nhờ xuất khẩu tăng với các đơn hàng phế HMS khối lượng nhỏ chốt tại mức 250 USD/tấn CFR Đài Loan, nên các nhà cung cấp chào mức cao 230 USD/tấn FAS cảng Long Beach. Có sự suy yếu ở Northwest, nơi một nhà máy thép đang bảo trì và tại Rockies có giá giảm 10 USD/tấn.

Tồn kho phôi thanh tăng do tiêu thụ tại cảng Manila suy yếu

Tiêu thụ tại cảng Manila suy yếu đã khiến tồn kho phôi thanh dâng cao tại Philippines. Các nhà nhập khẩu trước đó đã đặt hàng trong tình trạng cảng bị tắc nghẽn. Tuy nhiên, với thời gian chờ giảm còn ít hơn 1 tuần so với mức 1-2 tháng trước đó, các lô hàng đang dồn ứ ngày càng cao trong kho các nhà nhập khẩu.

Sau khi giá phôi thanh Trung Quốc tăng, các nhà nhập khẩu Manila đã chuyển sang vật liệu các khu vực khác như Việt Nam và Thái Lan. Các lô hàng này chủ yếu khối lượng nhỏ, dẫn tới ít tắc nghẽn hơn ở cảng.

Các nhà nhập khẩu lớn cũng thực hiện dỡ hàng tại các bến tàu gồm cả các sà lan ở ngoài khu vực neo đậu. Tồn kho bắt đầu gia tăng kể từ cuối tháng 4.

Giá chào phôi thanh 120/130mm từ Trung Quốc giảm còn 420-430 USD/tấn CFR Manila so với mức 440-450 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu tuần trước, nhưng không có người mua.

Một thương nhân cũng nhấn mạnh về mùa tiêu thụ thấp điểm. Thị trường thép đang chậm lại vì mùa mưa. Tăng trưởng kinh tế tại Philippines cũng yếu hơn dự báo so với Q1. Một nguồn tin cho rằng việc tuyên bố luật quân sự gần gây ở Mindanao miền nam Philippine cũng kéo theo tiêu thụ thép suy yếu.

Trong khi đó, giá phôi thanh Trung Quốc giảm tổng cộng 190 NDT/tấn trong 6 ngày liên tục, còn 2.950 NDT/tấn (434 USD/tấn) trong ngày 6/6. Giá phôi thanh đã phục hồi nhẹ lại 20 NDT trong ngày thứ sáu tuần trước, về mức 2.970 NDT/tấn.

Nhiều nhà máy Trung Quốc chuyển hướng sang xuất khẩu trong tuần này vì triển vọng giá trong nước suy yếu do tiêu thụ chậm. Nhiều thương nhân còn bi quan và chào bán khống các lô hàng theo điều khoản giao nhanh.

HRC Châu Á ổn định dựa trên giá nội địa khởi sắc

Các nhà máy Trung Quốc duy trì giá chào bán HRC không đổi vào hôm qua do giá trong nước tăng nhưng người mua vẫn dự thầu ở mức thấp, lo ngại giá sẽ giảm nữa. Platts giữ nguyên giá HRC SS400 dày 3mm tại mức 430-433 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.150-3.170 NDT/tấn (464-467 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế, tăng 20 NDT/tấn.

Các nhà máy lớn giữ chắc giá chào ở mức 430-435 USD/tấn fob Trung Quốc cho HRC SS400 mặc dù ít người mua. Doanh số bán ra có thể tăng trong những ngày tới, khi mà giá trong nước tăng lại.

Một nhà máy lớn ở miền đông bắc đã chào bán HRC giao tháng 8 hồi đầu tuần này ở mức 435 USD/tấn FOB Trung quốc và hiện tại đã ngưng chào bán vì hết hàng. Nhà máy này đang tiến hành bảo trì tại một trong các xưởng băng nóng trong tháng 6-7.

Dù vậy, giá 435 USD/tấn FOB hiện tại là khó được người mua chấp nhận, một nhà máy cho biết. Nhà máy này đã bán 2.000 tấn tấm cán nóng SS400 tại mức 430 USD/tấn FOB Trung Quốc tới Việt Nam trong ngày hôm qua.

Tại Việt Nam, người mua chỉ dự thầu ở mức 430-445 USD/tấn cfr Việt Nam cho thép cuộn SAE, thấp hơn nhiều so với giá chào bán 455-465 USD/tấn CFR Việt Nam của các nhà máy. Chào giá từ Ấn Độ và Đài Loan ở mức 460 và 480 USD/tấn CFR Việt Nam.

Các khách hàng Hàn Quốc vẫn giữ im lặng do nghĩ giá Trung Quốc sẽ giảm vì chi phí nguyên liệu thô rẻ và đang mùa tiêu thụ thấp điểm.

Chênh lệch giá HRC SAE1006 2.0mm với HRC SS400 là 10 USD/tấn.

Giá thép cuộn CIS bị tác động từ sự suy yếu của HRC EU và Trung Quốc

Các nhà máy Nga đã giảm giá chào HRC tháng 7. Trong tuần qua, họ bắt đầu chào ở mức 445 USD/tấn, nhưng sau đó giảm xuống 440 USD/tấn FOB Biển Đen tuần này để kích cầu. Các nguồn tin cho rằng giá trên vẫn chưa thu hút được người mua vì giá chào mua của họ thấp hơn 15 USD/tấn.

445 USD/tấn FOB Biển Đen được cho là không hợp lý mà phải giảm thêm 10 USD/tấn nữa, một thương nhân Châu Âu phát biểu. Giá vẫn trên đà giảm và dự báo sẽ mất thêm 10-15 USD/tấn trong tuần tới. Các nhà máy Nga đưa ra giá chào cao để giữ thị trường ổn định nhưng giá dự thầu chỉ ở mưc 425-430 USD/tấn.

Giá chào mới tới Thổ Nhĩ Kỳ và MENA ở mức 460-470 USD/tấn CFR nhưng không ai mua. Giá chốt trước là 445-455 USD/tấn CFR (430-440 USD/tấn fob Biển Đen) và hiện tại, giá 455-460 USD/tấn CFR Bắc Phi có thể thành công (tương đương 435-440 USD/tấn FOB Biển Đen).

Vài thương nhân cho rằng giá HRC Trung Quốc đã giảm còn 425 USD/tấn fob so với mức 437 USD/tấn đầu tháng 6. Hơn thế nữa, các nhà máy Ấn Độ đang rất cạnh tranh và giá tại Châu Âu cũng như Trung Đông đều giảm. Kể từ 26/5, giá HRC Châu Âu giảm 18 USD/tấn.

Nhu cầu tiêu thụ CRC có cải thiện nhẹ do nguồn cung thắt chặt. Với sự suy yếu của giá HRC, các nhà máy CIS sẽ cố gắng bán CRC với giá 490-495 USD/tấn FOB Biển Đen được cho là hợp lý.

CRC tiếp tục mạnh và được chào bán ở mức 530 USD/tấn CFR nhưng lẽ ra phải thấp hơn vì chênh lệch với HRC quá lớn, theo một thương nhân nhận định.

Trong ngày 7/6, Platts giảm giá HRC CIS xuống 2.5 USD/tấn, còn 430-440 USD/tấn FOB Biển Đen, với CRC CIS ở mức 490-500 USD/tấn, giảm 2.5 USD/tấn.

Giá thép dây Châu Á giảm theo sự suy yếu của giá nội địa Trung Quốc

Giá thép dây Châu Á giảm trong ngày hôm qua so với tuần trước, do các nhà máy giảm giá chào bán và giá trong nước Trung Quốc cũng suy yếu. Platts giảm giá thép dây dạng lưới 6.5mm Trung Quốc xuống 8 USD/tấn, còn 432 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại thị trường Thượng Hải, trong ngày 7/6, giá thép dây Q195 6.5mm ở mức 3.370-3.390 NDT/tấn (496-499 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế, giảm 75 NDT/tấn so với tuần trước. Các thương nhân cho biết thị trường đã suy yếu tuần này vì doanh số bán ra chậm dựa vào mùa mưa và giá niêm yết giảm của các nhà máy.

Các nhà xuất khẩu lớn Trung Quốc đang chào bán thép dây Q195 6.5mm tại mức 440-445 USD/tấn FOB trong ngày thứ tư, giảm từ mức 445-470 USD/tấn FOB tuần trước. Nhiều nhà máy chào bán hơn vào tuần này do giá trong nước giảm hơn 100 NDT/tấn kể từ tuần trước.

Các thương nhân cho biết, doanh số bán ra vẫn chậm vì người mua bi quan trong bối cảnh tiêu thụ thấp điểm trong hè. Giá lý tưởng của người mua thấp hơn giá chào nhà máy 20 USD/tấn. Hầu hết các thương nhân vẫn thận trọng khi bán khống dựa vào xu hướng bất ổn tiếp diễn. Nếu giá không có xu hướng suy yếu rõ ràng, các thương nhân có thể bị lỗ nếu bán khống.

Vài nhà máy đã chốt đơn hàng trong tuần này, vì cho rằng khó kiếm lời được vào lúc này.

Vài thương nhân đang chào bán tại mức 440 USD/tấn fob trong khi giá lý tưởng từ các khách hàng Việt Nam chỉ 430 USD/tấn CFR Hồ Chí Minh (tương đương 421 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 9 USD/tấn).

Hầu hết các khách hàng Đông Nam Á đưa ra giá chào mua lý tưởng là 425-430 USD/tấn CFR trong ngày thứ tư.

Giá chào tới Philippines ở mức 450 USD/tấn CFR Manila (435 USD/tấn FOB). Một đơn hàng được chốt ở mức 448 USD/tấn CFR Manila nhưng chưa được xác nhận.

Jiujiang Wire Co tỉnh Hà Bắc đã giảm giá chào xuống 100 NDT/tấn (15 USD/tấn), còn 3.200 NDT/tấn (471 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế trong ngày 6/6.

Giá thép cây Châu Á ổn định

Giá thép cây Châu Á ổn định trong ngày hôm qua do nhiều nhà máy giữ giá chào bán khong đổi. Platts giữ nguyên giá thép cây BS500 16-20mm tại mức 428-430 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ ba.

Giá chào từ các nhà máy Trung Quốc vẫn ở mức 440-480 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, tương đương 454 USD/tấn FOB Trung Quốc đã tính 3% chênh lệch khối lượng. Một nhà máy tăng giá chào thêm 5 USD/tấn lên 450 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết.

Tại Singapore, giá chào từ các nhà máy ở mức 450-480 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 7, tương đương 447-478 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính 16 USD/tấn phí vận chuyển và 3% chênh lệch khối lượng.

Giá chào từ các thương nhân ở mức 460 USD/tấn CFR giao tháng 7, và 430 USD/tấn bán khống. Một đơn hàng lớn được nghe chốt ở mức 410 USD/tấn CFR Singapore. Một người mua dự tính mua 4.000-5.000 tấn nếu giá ở mức 410 USD/tấn CFR.

Tại Hồng Kông, giá chào từ một nhà máy Trung Quốc ở mức 465 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 455 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá chào mua là 440 USD/tấn CFR. Các người mua trong nước đã tăng chào mua vì nghĩ giá sẽ tăng.

Thị trường thép tấm mỏng Mỹ tranh cãi xoay quanh thông báo tăng giá từ các nhà máy

Trong ngày hôm qua, các khách hàng thép tấm mỏng Mỹ vẫn đang chờ đợi xem liệu rằng các nhà máy sẽ áp dụng giá tăng 30 USD/tấn như thế nào.

Một nhà môi giới cho biết, chưa chắc giá giao dịch có tăng không nhưng giá chào bán đã tăng. Ông đã nhìn thấy các nhà máy tăng giá chào bán thêm 30 USD/tấn. Giá thấp nhất mà ông trả cho HRC là 560 USD/tấn nhưng hiện tại, các nhà máy đang chào bán tại mức 610 USD/tấn cho đơn hàng ít hơn 500 tấn.

Một nhà máy vẫn chưa thay đổi giá CRC và chào tại mức 780 USD/tấn. Nhà máy này cho biết tùy theo khách hàng để áp dụng giá tăng, giá mới có thể hơn 30 USD/tấn.

Một nhà tiêu thụ cuối nhận được chào bán CRC từ một nhà máy tăng lên 820 USD/tấn từ mức 800 USD/tấn trước đó, nhưng ông vẫn chưa đặt hàng. Ông tăng giá để ngăn chặn đà suy yếu của giá thép.

Trong mấy ngày qua, một nhà máy cho biết rất ngạc nhiên khi sức mua tăng lên, và có vài đơn hàng lớn giúp đẩy thời gian làm hàng tăng. California Steel Industries đã tăng giá chào thêm 30 USD/tấn, và đã bán hết hàng trong 2 tuần đầu tháng 7 và hiện đã ngưng bán hàng.

Trước khi tăng giá, giá chào bán HRC của trung tâm dịch vụ là 600 USD/tấn và 780 USD/tấn cho CRC, tuy nhiên, ông vẫn chưa nhận được giá mới từ các nhà cung cấp.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức 575-600 USD/tấn và 775-800 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Định giá phôi thanh CIS

Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phôi thanh CIS tại mức 392 USD/tấn trong ngày hôm qua.

Giá chào phôi thanh giao tháng 7 vẫn ổn định tại mức 400 USD/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Ai Cập cho biết giao dịch gần đây chốt ở mức 412-417 USD/tấn CFR Ai Cập giao tháng 6, tương đương 392-395 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov. Ông không chắc chắn về xu hướng giá tháng 7. Một thương nhân Châu Âu cho biết, giá chào vẫn bình ổn ở mức 400 USD/tấn FOB mà không có đơn hàng.

Một thương nhân Ukraina cho biết giá chào vẫn ổn định do các nhà máy không gặp áp lực hoặc đã nhận đủ đơn hàng. Giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng hỗ trợ giá phôi thanh.

Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ

Platts giảm giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ xuống 0.5 USD/tấn, còn 425 USD/tấn FOB trong ngày hôm qua.

Vài nhà máy cho biết hoạt động thị trường hạn chế ở mức 430-435 USD/tấn FOB Marmara.

Một thương nhân cho biết, hoạt động giao dịch chậm chạp nhưng vài đơn hàng bán tới Châu Phi tại mức 435 USD/tấn FOB. Một thương nhân cho biết giá thấp hơn. Một thương nhân Châu Âu cho rằng, thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn có sẵn tại mức 420 USD/tấn FOB, hơi cao hơn 10 USD/tấn so với giá nội địa Châu ÂU. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá xuất khẩu ở mức 425 USD/tấn fob Thổ Nhĩ Kỳ.

Platts giảm giá chào bán xuống 430-435 USD/tấn còn người mua ở mức 420-425 USD/tấn.

Giá thép cây/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu, sức mua thấp

Nhu cầu tiêu thụ thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục suy yếu trong lễ ăn chay, trong bối cảnh nguồn cung dần cải thiện. Cùng với xu hướng suy yếu của sức mua, giá thép cây và phôi thanh tiếp tục giảm chậm.

Bộ trường kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã ký sắc lệnh giảm nửa thuế nhập khâu cho thép cây trong ngày thứ ba, nhưng dự báo không có tác động mạnh tới thị trường trong nước trong ngắn hạn.

Giá thép cây 12-32mm từ các nhà môi giới giảm thêm ở vài khu vực xuống 20 TRY/tấn (5.5 USD/tấn) trong ngày thứ tư, Giá tại Karabuk giảm còn 1.980-2.000 TRY/tấn đã tính thuế, trong khi giá tại Iskenderun giảm còn 1.950-1.970 TRY/tấn. Tuy nhiên, giá tại Istanbul vẫn tăng đáng kể.

Giá chào từ các nhà máy cho thép cây 12-32mm tương đối ổn định ở mức 470-478 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ tư, trong khi giá phôi thanh đạt mức cao 440 USD/tấn xuất xưởng trong các tuần trước, giảm còn 430 USD/tấn trong mấy ngày gần đây. Giá chào phôi thanh từ CIS đạt mức 410-415 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

NSSC giảm giá CRC và thép tấm  không gỉ

Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) thông báo sẽ giảm giá thép CRC austenitic và Ferrictic  cũng như thép tấm austenictic tháng 6 xuống 5.000 Yên/tấn (46 USD/tấn).

Điều kiện thị trường không thay đổi nhiều trong tháng qua, với nhu cầu tiêu thụ thép tấm và CRC không gỉ vẫn bình ổn. Phát ngôn viên nhà máy cho hay, trong tháng trước đã tăng giá để phản ánh sức mua tăng, nhưng tháng này vẫn chưa điều chỉnh giá, chỉ điều chỉnh phụ phí thông qua giá hợp kim.

Trong tháng 4-5, giá niken giảm 0.25 usd/lb từ mức 4.27 USD/lb tháng 3-4, trong khi giá Ferrochrome trong tháng 4-5 giảm 5.5 cents/lb so với tháng 3-4, còn 162 cents/lb. Điều này, cộng với tỷ giá Yên/dolla tăng nhẹ, buộc các nhà máy giảm phụ phí.

Một nhà môi giới thép không gỉ Tokyo thừa nhận tác động từ sự suy yếu của niken và ferrocherome, nhưng cho biết NSSC gần đây đã tăng giá cơ bản để duy trì giá ổn định dù giá nguyên liệu thô giảm.

Ông bày tỏ sự ngạc nhiên với lần cắt giảm của NSSC và cho rằng, vì cung-cầu thị trường ổn định nên giá sẽ không suy yếu theo thông báo của NSSC.

Các quan chức NSSC cho biết giá CRC austenitic giảm lần đầu tiên kể từ tháng 6/2016, lúc giá giảm 5.000 Yên/tấn. Cùng đó, CRC Ferritic cũng được điều chỉnh lần đầu kể từ tháng 6/2012 khi NSSC cũng giảm 5.000 yên/tấn.

NSSC không tiết lộ giá niêm yết, nhưng giá thị trường hiện tại cho tấm cán nguội 304 dày 2mm tại Tokyo là 34.000 Yên/tấn (3.102 USD/tấn) và tấm CR 430 là 270.000 yên/tấn (2.464 USD/tấn), không đổi so với tháng trước.

Nhà máy này cho biết, các xưởng CRC ở Hikari và Kashima của nó đều hoạt động hết công suất và vẫn đang duy trì công suất này.

Giá HRC Ấn Độ ổn định trước các lo ngại thuế quan

Giá HRC Ấn Độ vẫn ổn định tuần này do các nhà máy chọn cách giữ giá trong khi chờ đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn trước việc có thể bị tác động bởi thuế GST.

Chính phủ Ấn Độ sẽ đưa ra thuế GST mới từ ngày 1/7, nhưng chưa có chi tiết cụ thể khiến thị trường bối rối. Một quan chức nhà máy ở New Delhi cho rằng nhu cầu tiêu thụ HRC suy yếu kể từ tháng 5 do người tiêu thụ lo âu về thuế.

Trong ngày thứ tư, giá HRC IS 2062 dày 3mm xuất xưởng Mumbai ở mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (551-560 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển, tương đương 41.934-43.115 Rupees/tấn đã tính VAT 5% và 12.5% thuế tiêu thụ đặc biệt.

Các thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt trên sẽ không được áp dụng nữa từ ngày 1/7, và các khách hàng chỉ trả một loại thuế là GST 18%.

Tuy nhiên, trong tuần này, hoạt động giao dịch HRC chậm chạp, do người mua muốn tránh trả thuế  có thể không còn giá trị hoặc có thể thu hồi sau này.

Một nhà máy cho biết họ đang giảm công suất, ưu tiên thanh lý hàng trong kho lúc này trước khi nguyên liệu mới có thể bị đánh thuế mới.

Điều này dường như gây áp lực việc bán HRC tròng tháng 6. Tuy nhiên, sức mua có thể cải thiện vào tháng tới khi người mua bắt đầu bổ sung hàng tồn.