Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 09/02/2017

Thị trường phôi thanh Đông Nam Á chứng kiến nhiều sự thay đổi hơn

Nhiều bất ổn đã xuất hiện trên thị trường phôi thanh Đông Nam Á trong bối cảnh giá phế Thổ Nhĩ Kỳ đang phục hồi và niềm tin thị trường được cải thiện ở Trung Quốc. Giá thép cây giao sau của Trung Quốc tăng kể từ hôm thứ Hai đã kéo chào giá phôi thép Trung Quốc tăng cao mặc dù chào giá thấp từ các nước khác đã xuất hiện trong những tuần gần đây.
Tại Trung Quốc, một số nhà máy không muốn cung cấp phôi thép để xuất khẩu vì giá thị trường giao sau đang tăng. Chào giá hạn chế cho phôi Q235 150mm hiện nay đang ở mức 415-425 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Một thương nhân Hồng Kông cho biết, những người tham gia thị trường ở Trung Quốc khá lạc quan về thị trường thép cây giao sau. Ông tin sự lạc quan này có liên quan đến mục đích gây quỹ cho các dự án cơ sở hạ tầng và công cộng trị giá 10,6 nghìn tỷ NDT (1,6 nghìn tỷ USD) của Trung Quốc thông qua các công ty tư nhân- nhà nước. Đầu năm nay, tuyên thệ đổi mới của chính quyền Trung Quốc là đóng cửa các lò nung cảm ứng đã châm ngòi cho niềm tin vào thị trường giao sau.
Tại Manila, phôi thép Q275 120/130mm từ Trung Quốc đã được chào giá vào khoảng 430 USD/tấn CFR cho đợt giao hàng tháng Ba/ Tư, so với 420-435 USD/tấn CFR vào thứ Hai. "Hôm nay thị trường không sôi động mấy," một thương nhân Manila đã nhận được chào giá 427 USD/tấn CFR cho phôi thép Q275 120mm vào ngày hôm đó cho biết.
Sự hồi phục giá phế Thổ Nhĩ Kỳ có thể đã ảnh hưởng đến chào giá thấp trong khu vực này ba tuần qua. Một số thương nhân nghe nói hôm thứ Tư, chào giá Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay đang ở mức 415 USD/tấn CFR Manila và 405 USD/tấn CFR Indonesia cho đợt hàng giao tháng Ba/Tư.
Những người khác lưu ý rằng kể từ tuần trước thì chào giá dần ít hơn. Trong khi đó có tin tức rằng phôi thép cán Thổ Nhĩ Kỳ đã được đặt hàng ở mức 405-410 USD/tấn CFR Indonesia vào cuối tháng 1, người mua trong khu vực đã tỏ ra thờ ơ đối với phôi thép của Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này là do khối lượng lô hàng lớn hơn (từ 30.000 tấn trở lên) và thời gian giao hàng dài hơn (khoảng 30 ngày trở lên.

Trung Quốc: HRC duy trì ổn định do lượng mua ít

Giá HRC nội địa và xuất khẩu của Trung Quốc vẫn ổn định hôm thứ Tư. Hầu hết người mua tỏ ra thận trọng trong khi các nhà máy Trung Quốc không vội vàng hạ chào giá, với hy vọng rằng giá giao sau đang tăng sẽ làm cho người mua quan tâm.
Platts đánh giá HRC SS400 dày 3.0mm ở mức 494,50-499,50 USD/tấn FOB Trung Quốc vẫn bằng với giá ngày thứ Tư. Tại thị trường đại lý của Thượng Hải, HRC Q235 5.5mm được đánh giá ở mức 3.750-3.760 NDT/tấn (546-547 USD/tấn) xuất xưởng với thuế VAT 17%, không thay đổi so với thứ Ba.
Hầu hết các nhà máy Trung Quốc vẫn khăng khăng chào giá ở mức 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400, không có giao dịch nào được nghe nói đến tính đến cuối ngày thứ Tư. Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đã xem xét việc tăng chào giá của họ lên 520-530 USD/tấn FOB Trung Quốc vì họ vẫn thích bán cho những khách hàng trong nước mà sẵn sàng trả giá cao hơn.
Một nguồn tin khác ở nhà máy miền đông Trung Quốc tin rằng người mua ở nước ngoài sẽ bắt đầu đặt hàng trong vài ngày sắp tới nếu tất cả các nhà máy từ chối giảm chào giá. Nhưng các thương nhân nghi ngờ điều này, nói rằng khách hàng của họ đã không phản hồi lại bởi vì họ có thể tìm nguồn thép cuộn rẻ hơn từ các nước khác.
Thương nhân trên nói thêm, nghe nói chào giá Ấn Độ ở mức thấp 500-515 USD/tấn CFR Việt Nam cho cuộn SAE vào thứ Tư, làm lôi kéo một số người mua Việt trả giá ở mức 495 USD/tấn CFR Việt Nam. Một thương nhân cán thép Việt nói, giá đó thấp hơn nhiều so với chào giá của nhà máy ở đông bắc Trung Quốc với 530-540 USD/tấn CFR Việt Nam.
Có tin cho rằng một giao dịch cho cuộn SAE được sản xuất bởi một nhà máy Đài Loan đã được ký kết ở mức 545 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần này. Tuy nhiên, một thương nhân ở Việt Nam cho biết, mức này không thể lặp lại trên thị trường bởi vì nhiều người ở đó đang muốn mua thép cuộn của Ấn Độ với giá rẻ hơn.

Giá cuộn trơn châu Á giảm do giao dịch sau Tết chậm chạp

Giá giao ngay của cuộn trơn được giao dịch tại châu Á giảm nhẹ trong tuần này khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc mở cửa kinh doanh trở lại sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Sự sụt giảm là do hoạt động giao dịch chậm cho thấy triển vọng thị trường không chắc chắn. Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm ở mức 432-438 USD/tấn FOB, giảm 4 USD/tấn so với hai tuần trước đây.
Hôm thứ Tư, một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền bắc Trung Quốc chào giá ở mức 450 USD/tấn FOB cho thép dây hàm lượng carbon thấp SAE1008 6.5mm. Một số thương nhân cho biết, giá không thể giảm. Do sự phục hồi trên thị trường giao sau, chỉ những chào giá mua tăng mới có thể đàm phán giảm nhẹ xuống còn khoảng 445 USD/tấn FOB trong ngày thứ Tư.
Một nhà máy xuất khẩu lớn khác hiện đang cân nhắc nâng giá một số sản phẩm trong khi một nhà máy khác nữa dự kiến sẽ công bố giá niêm yết cao hơn vào thứ năm. Trong khi đó, hai nhà xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc đã báo giá ở mức 450 USD/tấn FOB và 460 USD/tấn FOB vào thứ Tư, mặc dù cả hai cho biết doanh số bán hàng chậm chạp sau kỳ nghỉ.
Vẫn có một khoảng cách lớn giữa người mua ở nước ngoài và các nhà xuất khẩu Trung Quốc, và chào giá từ các công ty giao dịch của Trung Quốc lộn xộn do vị thế của họ. Theo một người mua địa phương, có tin rằng một thỏa thuận thực hiện hồi đầu tuần này ở mức 440 USD/tấn CFR Manila (425 USD/tấn FOB). Vào cuối hôm thứ Tư các thương nhân cho biết rằng việc đặt hàng ở mức này có thể sẽ không xảy ra nữa khi mà các nhà máy hy vọng giá sẽ cao hơn.
Đối với Việt Nam, có tin rằng một số thương nhân chào giá vào khoảng 445 USD/ tấn CFR Thành phố Hồ Chí Minh, tương đương với 437 USD/tấn FOB. Giá này chủ yếu là cho các lô hàng không chứa hợp kim, mặc dù nhiều tin đồn cho biết các vụ kiện thương mại mới được tiến hành bởi Việt Nam nhắm vào cuộn trơn có nguồn gốc Trung Quốc. Theo người mua địa phương, mức giá lý tưởng của người mua vẫn ở mức 427-430 USD/tấn CFR (419-422 USD/tấn FOB), nhưng không ai có thể cung cấp ở mức giá này.
Jiujiang Wire Co nằm ở tỉnh Hà Bắc, vốn được theo dõi chặt chẽ vể việc niêm yết giá nội địa, đã duy trì giá tại mức 3.030 NDT/tấn (440 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế VAT ngày 06/02 - không thay đổi so với giá ngày 19/01. Ngày 08/02, giá giao ngay ở Thượng Hải cho cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá ổn định so với tuần trước ở mức 3.240-3.260 NDT/tấn xuất xưởng với thuế VAT, tăng 50 NDT/tấn so với hai tuần trước đây.

Giá thép cây châu Á chững lại trong bối cảnh ít người mua

Thị trường giao ngay thép cây xuất khẩu châu Á ổn định vào hôm thứ Tư do hoạt động thu mua vẫn còn ít sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc vẫn giữ mức chào giá cao - được hỗ trợ bởi giá giao sau và giá giao ngay đang tăng tại thị trường trong nước - trong khi người mua ở nước ngoài chờ đợi bên lề đang xem xét kỹ chào giá cạnh tranh từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 425-428 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ  Ba.
Hôm thứ Tư, hai nhà sản xuất thép ở miền đông Trung Quốc đã giữ mức chào giá của họ không thay đổi tại mức lần lượt 425 USD/tấn và 430 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương với 438 USD/tấn và 443 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3% . Trong khi đó, một nhà máy thứ ba trong khu vực này báo giá cao ở mức 445 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một nhà tích trữ Hong Kong cho biết rằng giá đó là quá cao để người mua trong khu vực chấp nhận. Một thương nhân miền bắc Trung Quốc nói rằng một số người mua hy vọng sẽ mua dưới 415 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, tương đương với 406 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 9 USD/tấn.
Một nhà tích trữ Singapore cho biết rằng chào giá của thép cây có nguồn gốc Trung Quốc dao động từ mức 435-445 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 433-443 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và 3% dung sai khối lượng. Thép Thổ Nhĩ Kỳ đã được báo giá ở khoảng 420 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết cho đợt hàng giao tháng 3 và giá cả có thể sẽ thấp hơn cho chào giá mua chắc chắn.
Nhà tích trữ đó cho biết, các nhà xuất khẩu Trung Quốc có thể phải đối mặt với áp lực lớn nếu người mua ở Singapore quay sang mua hàng của Thổ Nhĩ Kỳ. "Thật là khó khăn để ký kết bất kỳ giao dịch nào gần đây," một thương nhân ở đông Trung Quốc thừa nhận, nói thêm rằng thay vào đó người mua có ý định mua thép Thổ Nhĩ Kỳ.

NSSC lại nâng giá CRC và thép tấm không gỉ

Nippon Steel & Sumikin Stainless -nhà sản xuất thép không gỉ của Nhật Bản đã công bố hôm thứ Tư rằng sẽ nâng giá niêm yết nội địa cho CRC austenite và thép tấm austenite của họ lên 10.000 Yên/tấn (89 USD/tấn) và CRC Ferit lên 15.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 2.
Platts lưu ý, việc tăng giá này đồng nghĩa với kể từ tháng 8 NSSC đã tăng tổng cộng 50.000 Yên/tấn vào giá của CRC austenite, thép tấm austenite và CRC Ferit.
NSSC không tiết lộ giá niêm yết của họ, nhưng giá thị trường hiện tại cho CRS loại 304 (dày 2mm) ở Tokyo khoảng 320.000 Yên/tấn và CRS loại 430 khoảng 260.000 Yên/tấn, cả hai đều cao hơn 10.000 Yên/tấn so với tháng trước. Tuy nhiên, giá cả thị trường của tấm loại 304 ở Tokyo ở mức 510.000 Yên/tấn, không thay đổi so với tháng trước.
Các đại diện NSSC không có bình luận gì vào thứ Tư, nhưng công ty giải thích trong một tuyên bố rằng giá niken trung bình trong tháng Mười Hai và tháng Một giảm 0,26 USD/lb so với tháng Mười Một và Mười Hai xuống còn 4,77 USD/lb nhưng mà tỷ giá đồng Yên-USD đã suy yếu đến 116,38 Yên = 1 USD. Kết quả là NSSC cần phải tăng thêm 10.000 Yên/tấn vào thành phần phụ phí hợp kim của họ.
Giá ferrochrome trung bình trong tháng Mười Hai và tháng Một cũng đã tăng 25,5 cent/lb lên 145,5 cent/lb và với đồng Yên yếu hơn thì NSSC cần phải điều chỉnh thành phần hợp kim của họ cho CRC Ferit lên 15.000 Yên/tấn.
Một nhà phân phối thép không gỉ tại Tokyo cho biết, NSSC tuyên bố rằng họ cũng đã tăng thêm 10.000 Yên/tấn vào giá gốc của CRC dày trên 3mm để phản ánh nguồn cung hạn chế. Nhu cầu về thép dẹt không gỉ đã tăng tại Nhật Bản và yêu cầu từ khách hàng cũng sôi động. Ông nói, "Lần tăng giá này từ một nhà sản xuất hàng đầu sẽ khuyến khích chúng tôi nâng giá cao hơn nữa, nhưng nói thẳng là các nhà sản xuất thép không gỉ đang nâng giá quá nhanh. Mức giá tăng của chúng tôi vẫn còn tụt lại đằng sau khá xa”.
Doanh số của CRS Austenite từ các trung tâm thép cuộn không gỉ Nhật Bản vào tháng 12 đạt 29.534 tấn tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, theo Hiệp hội trung tâm thép cuộn không gỉ Nhật Bản. Doanh số CRS Ferit đạt 26.473 tấn, tăng 7,2% so với tháng 12 năm 2015.

Giá tấm mỏng Mỹ duy trì ổn định

Đại bộ phận các nhà máy tấm mỏng Mỹ đã và đang giữ giá cao, bất chấp một số giao dịch nhằm lấp vào khoảng trống cho đơn đặt hàng của họ và các giao dịch dựa theo khối lượng.
Cách đây hai tuần, một số nhà máy mini đã có những khoảng trống đáng kể trong kế hoạch sản xuất của họ và sẵn sàng thực hiện các đơn hàng lớn cho HRC với giá 580 USD/tấn ngắn. Kể từ khi họ đã lấp đầy những khoảng trống này, và trong khi giá cho những đơn hàng lớn không tăng lên thì nó cũng không xuống thấp hơn. Các đơn hàng khối lượng nhỏ hơn đang bán trên mức 600 USD/tấn ngắn.
Một số nhà máy mini đang bán khối lượng nhỏ hơn ở quanh mức giá 610 USD/tấn ngắn, trong khi các nhà máy liên hợp đã và đang duy trì ở mức cao 640 USD/tấn ngắn. Giá CRC trong nước là 800-810 USD/tấn ngắn cho khối lượng dưới 500 tấn ngắn từ các nhà máy mini nhưng 840 USD/tấn ngắn từ các nhà máy liên hợp, và ông dự báo giá sẽ được giữ ở quanh mức này.
Nguồn tin từ một trung tâm dịch vụ cho biết các nhà máy thường chào giá 840 USD/tấn ngắn cho CRC và tấm nền mạ kẽm, mặc dù ông đã đặt một đơn hàng với giá 800 USD/tấn ngắn gần đây mà ông coi là một chào giá có thời gian hạn chế. Chào giá HRC cũng đã tăng lên 640 USD/tấn ngắn trong một thời gian, mặc dù ông đã nhìn thấy một vài chào giá cho những đơn hàng lớn hơn có giá 600 USD/tấn ngắn.
Với khối lượng nhập khẩu thấp hơn được dự báo vào đầu năm nay và hoạt động kinh doanh phục hồi được thúc đẩy bởi chính quyền tổng thống hiện tại, giá có thể sẽ vẫn duy trì tăng qua quý 1 và có khả năng là tới quý 2.
Một nguồn tin từ trung tâm dịch vụ khác cho biết một số nhà máy đã báo giá HRC là 620-630 USD/tấn ngắn với hầu hết giao dịch với giá khoảng 620 USD/tấn ngắn.
Những khách hàng mà có thể đợi để mua thì đang nán lại. Có một vài lo lắng đã làm cho việc đặt mua giao ngay chậm lại, mặc dù hợp đồng vẫn bình thường.
Nguồn tin từ nhà máy cho biết ông đang chào bán thép tấm mạ kẽm trong khoảng 840-860 USD/tấn ngắn, mặc dù ông nghe nói giá cạnh tranh ở mức thấp 810 USD/tấn ngắn.
S&P Global Platts vẫn giữ định giá hàng ngày cho HRC và CRC hôm thứ Tư ở mức lần lượt 620-640 USD/tấn ngắn và 820-840 USD/tấn ngắn. Cả hai mức giá này đều là xuất xưởng tới Midwest (Indiana).

Định giá phôi thanh CIS

S&P Global Platts định giá phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Tư, bằng với thứ Ba.
Người mua cho biết hoạt động bị hạn chế trên thị trường vì mong chờ chào giá mới từ các nhà sản xuất CIS, có nhiều khả năng được điều chỉnh đi lên. Một nhà máy Ukraina đã đưa ra mức giá mục tiêu để giao tháng 3 là 370 USD/tấn FOB Mariupol, thanh toán trước. Mức giá này được người mua xem là quá tham vọng. Một thương nhân đang đợi chào giá mới từ các nhà máy khác và dự báo nằm trong khoảng 370-375 USD/tấn FOB.
Các nguồn tin về phía bên mua thì không quá lạc quan về thị trường, tuy nhiên nhấn mạnh rằng giá phế sẽ tiếp tục đi lên nếu được hỗ trợ bởi giá phế tăng cao hơn vào Thổ Nhĩ Kỳ.
 

Định giá FOB thép cây Thổ Nhĩ Kỳ

Hôm 8/2, S&P Global Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 400 USD/tấn FOB (khoảng 395-405 USD/tấn), tăng 5 USD/tấn so với ngày trước đó.
Các nhà sản xuất tiếp tục đẩy giá thép cây trên thị trường xuất khẩu lên mức 400 USD/tấn FOB và cao hơn, trọng lượng thực tế. Một nhà xuất khẩu lớn cho biết công ty đã bán một khối lượng lớn tới Châu Âu và Nam Mỹ với giá trong khoảng 400-410 USD/tấn FOB Marmara, trọng lượng thực tế. một thương nhân cho biết thậm chí đã đạt được mức 405-410 USD/tấn FOB nhưng chỉ riêng thị trường Mỹ.
Một thương nhân tại Châu Âu lưu ý về mức tăng trên chào giá từ 400 USD/tấn FOB hôm thứ Hai lên 405-410 USD/tấn FOB vào cuối tuần này. Chính ông đã đặt khoảng 2.000 tấn vào tuần trước với giá 397 USD/tấn FOB nhưng không nghĩ là mức giá này vẫn còn hiện diện.

Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng nhờ giá phế phục hồi và nhu cầu cải thiện

Các nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nâng giá niêm yết trong nước hôm thứ Tư do giá phế nhập khẩu dần tăng trong những ngày gần đây, khi giá mua mới đây của các nhà máy cho HMS 1&2 (80:20) chạm mốc cao 248 USSD/tấn CFR cùng với nhu cầu tương đối tốt hơn.
Icdas, doanh nghiệp sản xuất thép ở Marmara đã nhận đơn đặt hàng trở lại với giá cao hơn trong ngày thứ Tư, và đây là lần thứ ba trong 1 tuần. Theo đó, giá niêm yết cho thép cây đường kính 12-32mm của công ty này đã tăng thêm 40 TRY/tấn (10,5 USD/tấn) lên 1.780 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.760 TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale. Giá này đã bao gồm 18% VAT và tương đương lần lượt với 402 USD/tấn và 397 USD/tấn, chưa có VAT.
Giá thép cây đường kính 10mm của Icdas cũng tăng mức tương tự lên 1.790 TRY/tấn xuất xưởng hôm thứ Hai, trong khi thép cây 8mm tăng lên 1.800 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Do đó, mức tăng trong giá thép cây của Icdas đạt 100 TRY/tấn (27 USD/tấn) trong một tuần.
Giá niêm yết cho cuộn trơn đường kính 7-8.5 mm của công ty này cũng tăng lên 1.940-1.970 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT.
Một doanh nghiệp lớn khác, Bastug Metalurji, nằm ở Osmaniye, phía nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng đã nâng giá niêm yết cho thép cây lên mức tương tự 40 TRY/tấn (10,5 USD/tấn) trong ngày thứ Tư, lần thứ ba trong 1 tuần. Với lần tăng giá mới đây này thì giá niêm yết của công ty cho thép cây đường kính 12-32mm đã lên 1.760 TRY/tấn xuất xưởng. Thép cây đường kính 10mm của công ty này cũng tăng mức tương tự lên 1.770 TRY/tấn xuất xưởng, trong khi loại 8mm có giá 1.780 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT.
Doanh nghiệp sản xuất thép dài liên hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ- Kardemir đã mở bán thép thanh trở lại tới thị trường trong nước hôm thứ Ba, trong khi tính tới ngày 8/2 vẫn chưa mở bán thép cây sau khi nhận được đơn đặt hàng đáng kể. Công ty cũng dự định sẽ mở bán lại thép thanh và phôi thép với giá cao hơn trong những ngày tới.

Định giá HRC EU

S&P Global Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 570-575 EUR/tấn (610.29-615.65 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr hôm thứ Tư.
Các nhà máy hầu hết đang đợi cho tới tuần tới trước khi thực hiện thông báo giá, nhưng một nhà sản xuất ở trung Âu cho rằng có khả năng chào giá quý 2 sẽ ngang ngửa với mức 600 EUR/tấn xuất xưởng mà ArcelorMittal đã thông báo.
Nhập khẩu từ CIS đã cạn kiệt, trong khi chào giá tới Antwerp khoảng 510-520 EUR/tấn CIF Antwerp từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập không phải là quá hấp dẫn.
Các nguồn tin về phía bên mua đưa ra triển vọng trái chiều về nhu cầu, nhưng hầu hết đều dự báo sự dịch chuyển đi ngang với giá thị trường hiện nay ở quanh mốc 570-575 EUR/tấn.

Thị trường phôi thanh CIS tăng cường chào giá bán

Chào giá phôi thép tại thị trường Biển Đen khó nắm bắt trong tuần này nhưng vì thời gian để bán số hàng còn lại để giao tháng 3 đã hết nên các nhà máy thép được cho là sẽ bắt đầu chào bán một cách tích cực hơn trong một thời gian rất ngắn.
Hoạt động chào giá im ắng hơn có lẽ là do đơn đặt hàng nhận được nhiều nhờ việc bán trước đó tới Viễn Đông, Bắc Phi và Mỹ Latin. Một nguồn tin lưu ý rằng nhà cung cấp người Nga của ông đã quyết định sẽ chuyển một số khối lượng phôi thanh cho nhà máy cuộn cuộn và thép cây nội bộ. Việc tiếp tục cuộc chiến tại nhiều khu vực thuộc miền đông Ukraine cũng đang đe dọa tới tính liên tục của nguồn cung từ Metinvest trong những tuần tới.
Được hỗ trợ bởi sự phục hồi của giá phế tại Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà máy CIS có nhiều khả năng sẽ nâng chào giá lên. Một số nguồn tin dự báo về việc nhìn thấy mức giá 370 USD/tấn FOB Biển Đen và cao hơn. Cho tới nay chỉ có một nhà máy mini Ukraina duy nhất là đưa ra mức giá 370 USD/tấn FOB Mariupol, thanh toán trước. Mức giá này có lẽ là đã quá tham vọng vào tuần trước nhưng tuần này “với mức giá phế mới thì tôi tin là không”, một thương nhân bình luận.
Một thương nhân cũng nhận thấy xu hướng đảo ngược trên thị trường gần đây. “Tuần trước việc bán khống là điều đúng đắn”, thêm vào đó giá phế tăng đã làm thay đổi niềm tin.
Các nhà máy cán thép tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn thận trọng trong quan điểm của mình về việc nhập khẩu phôi thép, hy vọng giá thép thành phẩm trước tiên sẽ tăng nhiều hơn nữa. “Các nhà cán lại trong nước đã ngưng sản xuất vì không có lợi nhuận để tiếp tục”, một nhà sản xuất thép thanh cho biết, và trích dẫn chào giá thép thanh thương phẩm trong nước từ một nhà máy giảm xuống 415 USD/tấn xuất xưởng. Một nhà máy cán lại khác đánh giá rằng họ có thể trả mức giá 350-355 USD/tấn CFR Marmara cho phôi thép nhập khẩu, điều mà công ty thừa nhận là không thực tế.
Hôm thứ Tư, Platts định giá phôi thép hàng ngày ở mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen, ổn định so với ngày trước đó.

 Phế Châu Âu đang tìm định hướng giá

Sự biến động nhanh trong giá Thổ Nhĩ Kỳ hai tuần qua đã tạo ra sự hỗn loạn trên thị trường phế Châu Âu trong tuần này vì giá thanh toán tháng 2 đang được thương lượng. Khi tuần này sắp hết thì dự báo về sự sụt giảm lu mờ dần vì các nguồn tin đi theo diễn biến tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Sự đồng thuận tại tây bắc Âu hồi đầu tuần này là giá sẽ giảm 20-25 EUR/tấn cho giá thanh toán tháng 2, nhưng vào thứ Tư thì dự báo thu hẹp xuống 10-15 EUR/tấn.
Tại Nam Âu, các nhà máy Tây Ban Nha đã trả ít hơn 50 EUR/tấn trong ba tuần qua. Tuần này tại thị trường giao ngay trong nước vẫn duy trì ổn định sau một đợt giảm mạnh như vậy, với loại E1 (old light scrap) có giá 190 EUR/tấn, E3 (old heavy scrap) là 210 EUR/tấn, E8 (new production scrap) là 225 EUR/tấn và E40 (shredded) là 220 EUR/tấn.
Kể từ khi giảm 40 USD/tấn vào cuối tháng 1, giá tại thị trường nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã phục hồi 22 USD/tấn, vì chào giá mua và bán tăng.
Hôm thứ Tư, một thương nhân người Đức khác cho biết: “Các nhà máy đã cố gắng giảm 20-25 EUR/tấn, và quay lại mức hồi tháng 12, nhưng hôm nay tôi thậm chí còn không chấp nhận mức giảm 20 EUR/tấn. Bây giờ tôi muốn nói 10-15 EUR/tấn nhưng không có quyết định nào được thực hiện bởi Đức, Italy, Tây Ban Nha hay Pháp.
Tại Italy mức giảm được dự báo nằm trong khoảng 30-40 EUR/tấn tùy vào loại phế và xuất xứ của nó, và sẽ quay lại mức giá tháng 11 và 12.
“Tất cả điều này tùy thuộc bởi người mua Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay trên thị trường với giá 230-240 USD/tấn CIF cho HMS 1&2, sau khi chạm mốc thấp nhất 220 USD/tấn. Nếu giá của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng thì giá của Châu Âu cũng sẽ đi theo, và mức giảm sẽ thấp hơn so với dự báo.