Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 357.50 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ sáu, tăng 2.50 USD/tấn so với ngày trước đó.
Vài nguồn tin cho biết vài nhà máy CIS giữ giá chào ở mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen và cao hơn, nhưng người mua Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không qua tâm giá cao hơn 370 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ.
Các thương nhân cho biết mức giá chào 380-390 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ
vào Thổ Nhĩ Kỳ không được chấp nhận, nhưng dự báo sẽ rõ ràng hơn trong tuần tới.
Trong khi đó, BMZ tại Belarus dự báo sẽ mở thầu phôi thanh tháng 4 trong tuần tới tại mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước đầy đủ.
Thép cây Nga suy yếu do người bán không chấp nhận thanh toán trễ
Các nhà máy thép cây Nga đang đối mặt với sự sụt giảm giá thép tháng 3 do các chào bán ban đầu vẫn đang trong trạng thái mở và đàm phán. Vài nhà máy đã sẵn sàng chấp nhận bán tại mức giá giảm nhưng vài nhà phân phối vẫn chưa hài lòng và cho biết mức giảm tích lũy qua các tháng lên tới 1.000 Rub/tấn (17 USD/tấn) nên có thể giá sẽ còn giảm nữa.
Gía thép cây 12mm xuất xưởng trong khu vực vẫn ở mức 29.000-29.200 Rub/tấn, tuy nhiên, dự báo giá giao dịch sẽ xuống mức 28.000 Rub/tấn. Trong khi đó, giá xuất xưởng có thể giảm còn 28.300 Rub/tấn.
Phần lớn các nhà phân phối thép được khảo sát đều cho rằng giá giảm là tất yếu, tuy nhiên, một số ít ngược lại. Một hay 2 nhà máy đang sẵn sàng bán tại mức giá dưới giá chào 28.600 Rub/tấn để chiếm lấy thị phần cao hơn. Số khác rời bỏ thị trường do không có lựa chọn nào ngoại trừ để bảo toàn giá. Một nhà phân phối cho rằng thị trường sẽ trì trệ do mọi người ngưng mua cho tới khi giá đã chạm đáy.
Gía thực tế hiện tại đã giảm còn 28.600 Rub/tấn (479 USD/tấn) đối với loại 12mm giao tới Maxcova từ mức 29.200 Rub/tấn trong khi loại 14mm giảm từ mức 28.800 Rub/tấn xuống còn 28.200 Rub/tấn (472 USD/tấn) đã tính VAT 18%.
Platts giảm giá thép cây xuống còn 23.900-24.400 Rub/tấn (400-408 USD/tấn) từ mức 24.450-24.790 Rub/tấn (400-406 USD/tấn tại mức tỷ giá ngày 27/2) CPT Maxcova, giảm 470 Rub/tấn (8 USD/tấn). Gía trị đồng dolla vẫn không đổi nhờ sự tăng lại của đồng Rub từ mức 70 Rub/USD ngày 1 /2 lên mức 60 Rub/USD ngày 6/3.
Cung- cầu chênh lệch trên thị trường phôi phiến CIS
Trong ngày thứ sáu, các quan điểm về xu hướng giá cũng như sản lượng phôi phiến CIS tháng 4-5 trên thị trường khác nhau. Do chưa có đơn hàng nào được chốt, Platts vẫn giữ giá phôi phiến tại mức 330 USD/tấn FOB Biển Đen.
Người mua tin rằng giá phôi phiến vẫn chưa chạm đáy. Các nguồn tin dự báo giá sẽ chạm mức 310-320 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm từ mức 330-335 USD/tấn đối với thép sản xuất tháng 3-4.
Tuy nhiên,các nhà máy vẫn lạc quan và cho rằng giá 330 USD/tấn vẫn có khả năng đạt được. Vài yếu tố có thể là động lực cho thị trường như đầu tiên là biết cách xử lý nguồn cung. Nguồn cung phôi phiến có thể giảm nhờ vào việc sửa chữa tại các xưởng ở Novolipetsk. Thứu hai là các nhà máy Trung Quốc tăng giá HRC thêm 5-10 USD/tấn so với trước Năm mới, và cuối cùng là giá phế tăng và có lợi cho các nhà máy.
Nhà máy NLMK Nga đã ngưng một trong 5 nhà máy lò cao tại Lipetsk (2.2 triệu tấn/năm). Điều này sẽ dẫn tới sự sụt giảm 250.000 tấn gang thỏi trong tháng 3-4, cuối cùng ảnh hưởng tới nguồn cung phôi phiến thương phẩm.
Gía nhập khẩu phế HMS vào Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 13 USD/tấn từ mức giá 244 USD/tấn CFR trong suốt nửa tháng 2, lên mức 257 USD/tấn trong ngày 5/03. Tuy nhiên, ảnh hưởng tích cực của việc này có thể bị ngăn chặn bởi giá quặng giảm. Gía quặng đã giảm xuống mức 59.70 USD/tấn trong ngày 5/03 từ mức 63 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
Đồng Rub tăng giá kéo các nhà máy thép tấm quay về thị trường nội địa
Lại một lần nữa các nhà máy Nga vẫn chưa thật sự cắt giảm giá từ mức tăng ban đầu cho thép tấm cán nóng tháng 3. Tuy nhiên, giá thép tấm đã giảm 10 USD/tấn do đồng Rub tăng giá và nhu câù tiêu thụ suy yếu tại Nga.
Các nhà phân phối thép dường như đã trải qua một thời gian dài để nhận thấy rằng họ phải chấp nhận mức tăng từ các nhà máy. Trong vòng 4 tháng từ tháng 11-2, các nhà máy đã tăng giá thêm tổng cộng 4.540 Rub/tấn (75 USD/tấn).
Trong thời gian cuối tháng 10 và đầu tháng 2, giá thép tấm tại Maxcova đã tăng 22% chủ yếu do sự giảm mạnh giá của đồng Rub. Điều này đã khiến giá thép nội địa tính theo đồng dolla giảm xuống dưới giá chào xuất khẩu cuối tháng 8 và vẫn chênh lệch rất nhiều cho tới tháng 2.
Đồng Rub giảm cũng thúc đẩy tăng xuất khẩu trong tháng 12-2, tuy nhiên, hồi đầu tháng qua, đồng nội tệ bắt đầu tăng lên với tốc độ đều đặn. Nó đã tăng lên lại mức 60 Rub/USD vào ngày 6/03 từ mức 70 Rub/USD. Cùng với đó là sự giảm tương ứng của giá HRC CIS và giá xuất khẩu phôi phiến khiến thị trường xuất khẩu không thu hút.
Các nhà máy Nga đã quan tâm thị trường nội địa trở lại, tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ không cao và tài chính suy yếu đã dẫn tới lần giảm thứ 2 trong một tháng.
Gía thép tấm tháng 3 đã suy yếu xuống mức 30.920-31.150 Rub/tấn (517-521 USD/tấn) đối với loại 2mm và 30.330-30.440 Rub/tấn (507-509 USD/tấn) đối với loại 4mm giao tới Maxcova. Nếu chưa tính 18 % VAT, các mức giá này tương đương mức 26.200-26.400 Rub/tấn (438-442 USD/tấn) và 25.700-25.800 Rub/tấn (430-432 USD/tấn) CPT Maxcova.
Mặc dù các mức giá này thấp hơn giá thông báo 575 Rub/tấn (10 USD/tấn) cho thép tháng 3 nhưng nó vẫn cao hơn tháng 2 khoảng 1.100 Rub/tấn (18 USD/tấn).
Platts giảm giá thép tấm và cuộn cán nóng 2-4mm xuống còn 25.750-26.300 Rub/tấn (432-441 USD/tấn) và 25.150-25.700 Rub/tấn (422-431 USD/tấn) CPT Maxcova,cùng giảm 75 Rub/tấn (1.3 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Trong cùng tuần, giá thép tính theo đồng dolla đã tăng 10 USD/tấn dựa trên sự tăng mạnh của đồng Rub.Kết quả là chênh lệch giá HRC nội địa và giá xuất khẩu tính theo FOB Biển Đen đạt mức 40 USD/tấn.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng cùng với hàng nhập khẩu
Gía thu mua phế DKP của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tnăg 30-35 TRY/tấn (12-21 USD/tấn) trong ngày cuối tuần qua do giá phế nhập khẩu tăng dựa trên sự suy yếu mạnh của đồng Lira so với dolla.
Kardemir đã tăng giá mua phế thêm 55 TRY/tấn lên mức 755 TRY/tấn (289 USD/tấn) trong ngày thứ sáu. Do đó, giá mua phế của công ty này tăng 75 TRY/tấn (29 USD/tấn).
Một trong những nhà máy EAF lớn, Colakoglu và nhà máy hợp kim Asil Celik đã tăng giá phế DKP lên mức 620 TRY/tấn (238 USD/tấn) và 630 TRY/tấn (242 USD/tấn).
Nhà máy tích hợp Eregli thuộc tập đoàn Erdemir đã tăng giá mua thêm 15 TRY/tấn (6 USD/tấn) lên mức 645 TRY/tấn (247 USD/tấn) trong khi Iskenderun thuộc Isdemir cũng tăng giá cùng mức lên 680 TRY/tấn (260 USD/tấn).
Gía thu mua phế tàu tính theo đồng dolla của các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng trong tuần qua. Phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 255-260 USD/tấn, tăng 5-10 USD/tấn.
Gía thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng dựa trên giá phế tăng và đồng Lira suy yếu
Theo sau đà giảm mạnh trong suốt tháng 2, giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu tăng trong tuần qua do giá phế và phôi thanh tăng trong khi đồng Lira suy yếu mạnh.
Nhiều nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thép cây 12-32mm lên thêm 30-40 TRY/tấn (11-15 USD/tấn) cuối tuần qua, đạt mức 1.320-1.350 TRY/tấn xuất xưởng.
Mặc dù các nhà máy nâng giá, song giá niêm yết thép cây vẫn thấp hơn 5 USD/tấn so với giá trước đó dựa trên đồng dolla do sự suy yếu mạnh của đồng Lira.
Rõ ràng rằng thị trường đã chạm đáy do giá phế nhập khẩu và phôi thanh đã ngưng giảm và bắt đầu tăng dần trở lại. Do đó, giá thép cây có thể tăng hơn nữa trong những ngày tới nếu như xu hướng giảm của đồng Lira tiếp tục, tuy nhiên, giá không thể tăng nhiều do nhu cầu tiêu thụ vẫn chưa tăng mạnh.
Gía phế nhập khẩu và phôi thanh cũng đang gia tăng áp lực lên giá thép thành phẩm Thổ Nhĩ Kỳ. Gía chào nhập khẩu phôi thanh CIS vào Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 370 USD/tấn CFR trong tuần qua trong khi giá nhập khẩu phế HMS I/II 80:20 cũng tăng 10 USD/tấn và đạt mức 255-258 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 5-10 USD/tấn trong tuần qua, đạt mức 440-445 USD/tấn trong khi thị trường xuất khẩu có ít dấu hiệu phục hồi.
Giá nhập khẩu FeCr Trung Quốc đi ngang do giao dịch còn thưa thớt
Platts định giá giao ngay cho quặng chrome xuất xứ Nam Phi (48-52% Cr) không đổi so với tuần trước và duy trì tại 79-80 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu, trong bối cảnh giao dịch thưa thớt vì một số người đến giờ vẫn còn chưa quay lại thị trường sau khi nghỉ Tết.
Tương tự, giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ (58-60% Cr) cũng không đổi so với tuần trước đó ở mức 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ sáu cũng vì lý do nêu trên. Giao dịch được cho là sẽ trở lại bình thường từ tuần này trở đi sau khi kết thúc 15 ngày làm việc đầu tiên sau Tết vào 05/03.
Không có giao dịch nào được xác nhận với rất ít chào giá được nghe nói trong tuần trước. Một nhà nhập khẩu ở Thượng Hải cho biết ông đã nhận được chào giá quặng chrome là 80 cents/lb CIF trong tuần trước, không đổi so với chào giá trước Tết.
Nhu cầu ferrochrome vẫn còn yếu do nhiều nhà máy đã có đủ đơn hàng trước Tết, trong khi số khác do dự thu mua vì nhu cầu tiêu thụ thép không gỉ ít hẳn đi sau Tết. “Hiện giờ không phải lúc các nhà máy mua ferrochrome”.
Nhu cầu tiêu thụ thép không gỉ Trung Quốc vẫn còn suy yếu trong khi giá thép không gỉ austenitic có nhiều dấu hiệu giảm vì sức mua chậm và giá niken thấp sau Tết.
Tuy không có giao dịch giao ngay nào được thực hiện trong tuần trước nhưng một số khách hàng có hợp đồng dài hạn đã yêu cầu lùi ngày giao hàng về phía trước.
Nguồn cung giao ngay của Trung Quốc- tuy không hạn chế như trước Tết do sức mua èo uột- nhưng vẫn là một thách thức để có được do các nhà sản xuất ferrochrome trong nước cũng chưa mở cửa trở lại hoặc đang ưu tiên sản xuất cho những hợp đồng dài hạn.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á đi xuống cùng với niken
Platts định giá giao ngay cho CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.250-2.300 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu, giảm từ 2.300-2.350 USD/tấn CFR của một tuần trước sau khi các nhà cung cấp Đài Loan hạ chào giá do giá niken thấp hơn.
Trong khi chào giá CRC Đài Loan từ 2.270-2.300 USD/tấn CFR. Một chào giá được nghe nói 2.250 USD/tấn CFR Malaysia, mặc dù mức giá này không được xác nhận một cách trực tiếp với người mua hay bán. Một thương nhân ở Hong Kong đã nhận được chào giá 2.270 USD/tấn CFR Hong Kong, tin là có thể có thêm khoản chiết khấu 30 USD/tấn từ nhà cung cấp của ông.
Một thương nhân ở miền bắc Đài Loan cho biết bà đã chào giá 2.300 USD/tấn CFR khu vực Châu Á tuần trước nhưng giá mua chỉ có 2.250 USD/tấn CFR. Một số khách hàng đã yêu cầu mức giá khoảng 2.100-2.200 USD/tấn CFR, nhưng các thương nhân cho rằng mức giá này là không hợp lý.
Chào giá cho CRC Hàn Quốc vẫn không đổi so với tuần trước và quanh mức 2.300 USD/tấn CFR. Nhưng nhiều người cho rằng có thể đi kèm với khoản chiết khấu 50 USD/tấn cho CRC Hàn Quốc theo thỏa thuận thêm với người bán. Một thương nhân ở Seoul nhấn mạnh rằng mức giá mong muốn của khách hàng là 2.200 USD/tấn CFR hồi tuần trước, nhưng đây là mức không thể giao dịch đối với CRC xuất xứ Châu Á. Mức giá có thể giao dịch cho CRC Đài Loan và Hàn Quốc là 2.250-2.300 USD/tấn CFR.
Giao dịch vẫn còn trì trệ mặc dù đã hết Tết. “Trước đó đã từng có nhiều suy đoán nhu cầu sẽ cải thiện hơn sau Tết. Nhưng cho đến nay chúng tôi không nhìn thấy bất kỳ sự hồi phục nào”, một nhà nhập khẩu ở Hong Kong nói.
Riêng chỉ có một chào giá CRC 304 2mm 2B xuất xứ Nhật Bản được nghe nói là 2.450 USD/tấn CFR tuần trước.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange rơi xuống mốc thấp 13 tháng trong tuần trước, trước khi phục hồi lên 13.825-13.830 USD/tấn hôm 04/03.
NSSC suy trì giá CRC và thép tấm không gỉ cho tháng 03
Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) sẽ duy trì giá bán trong nước cho CRC và thép tấm khống gỉ đối với những hợp đồng tháng 03 do thị trường vẫn tương đối không đổi so với tháng trước.
NSSC không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho CRC loại 304 dày 2mm ở Tokyo khoảng 330.000 Yên/tấn (2.750 USD/tấn), còn CRC loại 430 ở quanh mức 250.000 Yên/tấn (2.083 USD/tấn).
Giá của cả hai loại thép này tăng 10.000 Yên/tấn từ mùa hè nhưng không đổi trong những tháng gần đây.
Công ty cho biết giá niken bình quân hồi tháng 02 đã giảm 0,113 USD/lb từ tháng 01 còn 6,59 USD/lb, trong khi đồng Yên suy yếu còn 119,59 Yên đổi 1 USD. Nhà máy đã không thay đổi giá CRC và thép tấm austenite trong thành phần hợp kim của mình.
Phát ngôn viên NSSC cho biết nhu cầu CRC không gỉ ổn định. “Chúng tôi đã và đang điều chỉnh hàng dự trữ để bán giao ngay nhưng nhu cầu từ những hợp đồng dài hạn đang tăng vì vậy sản xuất của chúng tôi ổn định ở khoảng 90% công suất”.
Ông cho biết nhu cầu thép tấm không gỉ từ các dự án đầu tư tư nhân và nhà nước cũng như từ các xưởng đóng tàu vẫn ổn định. “Chúng tôi dự định sẽ thực hiện bảo trì tại nhà máy thép tấm của mình vào tháng 05, nhưng cho đến khi đó chúng tôi sẽ tiếp tục hoạt động hết công suất”.
NSSC không bao giờ tiết lộ công suất sản xuất thép tấm ở Yawata, miền tây Nhật Bản, nhưng Platts biết là nhà máy thép tấm có thể sản xuất 11.000-12.000 tấn/tháng trong đó có khoảng 3.000 tấn thép tấm mỗi tháng.
Giá thép cuộn Ý bắt đầu giảm do Ilva sản xuất trở lại
Gía thép cuộn Ý đã bắt đầu giảm trong mấy ngày gần đây do nhà máy Iva đã giao hàng trở lại trong khi giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn thu hút mặc dù đồng Euro giảm so với dolla.
Do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc Ilava bắt đầu giao hàng trở lại từ ngày 27/2, giá HRC đã giảm 5 Euro/tấn trong tuần qua. Một nguồn tin cho biết Ilva đã sẵn sàng bán HRC giao Q2 tại mức thấp 390 Euro/tấn xuất xưởng dựa trên giá vẫn còn cạnh tranh so với giá chào Trung Quốc.
HRC Trung Quốc được chào bán tại mức 380 Euro/tấn CIF Ý trong khi các nhà máy khác như Iran và Úc đã rút khỏi thị trường sau khi đã nhận được nhiều đơn hàng tại Ý đầu tháng 3.
Một nguồn tin khác tại Bắc Âu xác nhận rằng giá thép cuộn Ý giảm nhưng thị trường Bắc Âu vẫn bình ổn mặc dù triển vọng thị trường Q2 vẫn tiêu cực. Một nguồn tin tại Đức dự báo giá HRC sẽ giảm xuống dưới mức 400 Euro/tấn xuất xưởng trong những tuần tới, một khi bắt đầu thảo luận về các đơn hàng giao Q2.
Trong khi đó, giá CRC tại Ý đạt mức 460 Euro/tấn xuất xưởng trong khi HDG được chào bán và bán tại mức 450 Euro/tấn xuất xưởng. Một trung tâm dịch vụ cho biết Ilva đã nhận đủ đơn hàng CRC. Nhà máy này chỉ chào bán thép giao tháng 5 trong khi giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc đạt mức 440-450 Euro/tấn CIF Ý.
Gía thép cuộn mạ TNK bình ổn, giá tháng 4 có thể tăng
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang dự định tnăg giá HDG và PPGI cả nội địa và xuất khẩu tỏng những tuần tới sau khi HRC bắt đầu bình ổn và chi phí sản xuất nguyên liệu thô tăng.
Tuy nhiên, do giá HRC giảm bắt đầu ảnh hưởng tới giá thép mạ trong những tuần gần đây nên các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và các trung tâm dịch vụ không vội tăng giá chào do tâm lý thị trường suy yếu.
Gía niêm yết HDG 0.5mm trong nước vẫn tương đối bình ổn tại mức 660-690 USD/tấn xuất xưởng trong tuần qua trong khi giá chào xuất khẩu đạt mức 650-670 USD/tấn FOB.
Gía chào PPGI 9002 0.5mm vẫn ở mức 760-690 USD/tấn xuất xưởng trong tuần trong khi giá chào xuất khẩu vẫn bình ổn tại mức 750-770 USD/tấn FOB trước sự tăng lên của đồng dolla.
Trong khi đó, giá niêm yết HRC vẫn ở mức 440-460 USD/tấn xuất xưởng trong tuần qua do tâm lý thị trường vẫn không chắc chắn.
Định giá HRC EU
Platts đã giảm giá HRC Tây Bắc Âu xuống 2 Euro/tấn, còn 410 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Các nhà máy Châu Âu phần lớn đã không còn trông mong vào việc tăng giá và giá HRC Ý đã giảm 5 Euro/tấn, và dự báo giá Q2 sẽ còn giảm nữa.
Gía nhập khẩu từ Trung Quốc đạt mức thấp 380 Euro/tấn CIF Antwerp và 375-380 Euro/tấn CIF Ý trong khi giá HRC Nga chào bán tại mức 370 Euro/tấn CIF Antwerp.
Trong khi vài nguồn tin cho rằng giá trên thị trường đạt mức 410-415 Euro/tấn thì số khác cho rằng giá còn 400-405 Euro/tấn.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn, giá phế Châu Á bình ổn
Thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ sôi động hơn trong tuần qua do các nhà máy đã bắt đầu trả giá cao hơn. Gía phế tăng 15 USD/tấn lên mức 260 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ hồi cuối tuần qua.
Hầu hết các đơn hàng phế được xác nhận bán từ Châu Âu/ Bantic hoặc Anh, trong khi Mỹ vẫn chưa trở lại thị trường do phế Mỹ đã giảm nhẹ.
Gía mua phế DKP tính theo đồng Lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng 30-35 TRY/tấn (12-21 USD/tấn) trong ngày thứ sáu, cho thấy xu hướng tăng lên của giá phế nhập khẩu dựa vào sự suy yếu mạnh của đồng Lira so với dolla.
Thị trường phế nhập khẩu tại Đông Á vẫn trầm lắng. Các nguồn tin cho biết có ít hoặc nhiều mối quan tâm. Platts vẫn giữ giá phế nhập khẩu khối lượng lớn không đổi tại mức 245-250 USD/tấn CFR Đông Á.
Thị trường phế Đông Á nhìn chung vẫn bình ổn trong tuần qua. Các thương nhân đang thu mua tại mức 22.500-23.000 Yên/tấn (187.5-191.6 USD/tấn) FAS vịnh Tokyo để thu mua phế H2 xuất khẩu, không đổi so với tuần trước đó.
Công ty mini Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua phế tính theo đồng Yên cho tất cả các loại phế xuống 500 Yên/tấn ngoại trừ mức giảm 1.000 Yên/tấn tại các xưởng Bắc Kanto từ ngày 07/03. Gía thu mua phế H2 tại Utsunomiya hiện đạt mức 25.000 Yên/tấn.
Trong khi đó, các nhà máy mini tại Kanto đang trả 23.000-23.5000 Yên/tấn để mua phế H2, không đổi so với tuần trước đó.
Utsunomiya đang trả giá thu mua phế cao hơn so với các nhà máy mini khác ở Kanto do nó chủ yếu sản xuất thép dầm hình H với giá cao hơn. Nhà máy này cũng cố gắng kìm hãm mức giảm giá phế do muốn ngăn chặn mức giảm cuả thép thành phẩm.
Nhà tiêu thụ phế lớn nhất Hàn Quốc, Hyundai Steel vẫn chưa mua phế Nhật trong tuần qua. Công ty này dự thầu tại mức 23.000 Yên/tấn FOB đối với phế H2, nhưng giá này quá thấp để các nhà xuất khâủ phế Nhật Bản chấp nhận. Tuy nhiên, vài thương nhân Nhật Bản cho rằng Hyundai có thể mua được một ít phế tại giá này.
Tại thị trường phế nội địa Hàn Quốc, các nhà máy lớn đã thông báo sẽ cắt giảm giá xuống 5.000 Won/tấn (4.5 USD/tấn).
Giá ống đúc miền đông Trung Quốc giảm nhưng giá xuất xưởng lại tăng
Giá giao ngay của ống đúc cacbon ở Thượng Hải giảm trong tuần trước do sự khởi động lại chậm chạp của hoạt động sản xuất và xây dựng trong tháng này.
Tuy nhiên, giá có cơ hội chạm đáy sớm, sau khi các nhà máy ống đúc thông báo hôm thứ sáu rằng sẽ tăng 50 NDT/tấn ở thành phố Lâm Nghi.
Hôm 06/3, giá ống đúc giao ngay của loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông là 3.300-3.350 NDT/tấn (528-536 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải, giảm khoảng 100 NDT/tấn (16 USD/tấn) so với tuần trước sau hai lần hạ giá trong tuần qua.
Các thương nhân mà Platts liên hệ cho rằng nguyên nhân chính khiến nhu cầu từ các ngành tiêu thụ thép trực tiếp suy yếu là do thị trường mất niềm tin khi giá quặng lao dốc.
Tuy nhiên, dự báo chu kỳ của giá sẽ diễn ra và sẽ được hỗ trợ chủ yếu bởi giá xuất xưởng từ các nhà máy ống thép thay vì thông qua bất cứ sự cải thiện nào về nhu cầu trong thời gian ngắn. Một số nhà máy thép ống ở thành phố Lâm Nghi thông báo hôm thứ Sáu rằng họ sẽ nâng giá xuất xưởng lên 50 NDT/tấn để thử phản ứng thị trường.
Động thái nâng giá của nhà máy chủ yếu là để phù hợp với việc tạm ngưng hoạt động hai nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở miền đông kể từ ngày 03/03. Việc ngưng sản xuất khiến nguồn cung thép tròn đặc hạn chế.
Hai nhà máy Jiangxin Iron & Steel và Hujing Special Steel- là 2 trong số những nhà cung cấp thép tròn đặc lớn nhất của Trung Quốc. Không biết việc ngưng hoạt động này sẽ kéo dài bao lâu.
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ chật vật với sức mua yếu
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ tiếp tục chật vật với sức mua suy yếu từ hầu hết tất cả các thị trường.
“Tôi không có đơn hàng nào trong một tháng và không bán được gì trong ba tháng qua”, một đại lý công ty giao dịch ở Mumbai cho biết. Ông bắt đầu tập trung bán những sản phẩm khác.
Chào giá Ấn Độ HDG loại 0.3mm, phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông trước đó khoảng 820-830 USD/tấn CFR Mỹ trong suốt tuần thứ ba của tháng 02. Không có mức giá mới nào được nghe nói kể từ đó.
Sự cạnh tranh khốc liệt vẫn đang diễn ra từ thép Trung Quốc với giá rẻ hơn. HDG Trung Quốc có giá thấp hơn nhiều chỉ từ 680-690 USD/tấn CFR Mỹ, trong tuần thứ ba của tháng 02 mặc dù ở đây cũng không có chào giá nào gần đây được nghe nói.
Tương tự, các nhà xuất khẩu HDG đều đặn tới Mỹ, Uttam Galva Steels, cho biết tỷ trọng thép xuất khẩu của họ trên doanh số trong nước thay đổi thành 50:50 từ 80:20 của năm ngoái. Giám đốc công ty Sharad Tudekar dự báo sức mua trong nước sẽ tăng nhiều hơn, nhất là từ lĩnh vực chế tạo ô tô.
Một giám đốc xuất khẩu kỳ cựu từ Bhushan Power & Steel, ở Delhi, cho biết nhu cầu HDG trong nước được dự báo là sẽ tăng trong quý thứ ba của năm tài chính kết thúc vào tháng 03/2016. Trong khi đó, đồng Euro mất giá đang khiến người mua ở khu vực này tìm mua thép trong nước.
Ở những khu vực khác, các nhà xuất khẩu Ấn Độ mà đã từng thường xuyên xuất tới các nước Trung Đông và Châu Phi cho biết sức mua thấp bởi vì giá dầu thô bắt đầu giảm.
“Việc đầu tư vào hoạt động khoan dầu sử dụng HDG đã giảm và hầu hết các giếng dầu này đang ngừng hoạt động”, một nhà phân tích giải thích.
Các nhà nhập khẩu phôi thanh Đông Á trì hoãn thu mua trong lúc thị trường bất ổn
Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Á trầm lắng suốt hai tuần qua do nhiều nhà cung cấp Trung Quốc giữ chào giá ổn định giữa bối cảnh sức mua mỏng. Khách hàng đang đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn, trong khi hầu hết các thương nhân trong khu vực tỏ ra bi quan, mặc dù một số cho rằng nhu cầu có thể phục hồi trở lại vào tháng này.
Chào giá phôi thanh Trung Quốc tầm 370-375 USD/tấn CFR Manila và 375-380 USD/tấn CFR Bangkok tuần trước. Mức giá thấp hơn là cho phôi thanh loại Q235 trong khi loại Q275 cao hơn khoảng 5 USD/tấn.
Tuần trước một số phôi thanh loại Q275 của Trung Quốc được đặt mua với giá 365-370 USD/tấn CFR Philippines so với 375 USD/tấn CFR của tuần kết thúc ngày 27/02.
Một số thương nhân cho biết thị trường phôi thanh vẫn còn suy yếu sau khi giá quặng sắt giảm dưới 60 USD/tấn.
Tại Thái Lan, một thương nhân tin rằng nhu cầu có thể quay trở lại sau hai tuần bởi vì người mua thường bi quan và muốn đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn. Phôi vuông 150mm của Nga được đặt mua với giá 360-365 USD/tấn CFR Thái Lan hồi giữa tháng 02.
Một thương nhân người Thái khác cho biết khách hàng đang mua phôi thanh không phải của Trung Quốc với giá 370 USD/tấn CFR, nhưng ông cho biết ông chỉ có thể bán với giá 375 USD/tấn CFR. Nhu cầu bổ sung hàng dự trữ sẽ sớm trở lại bởi vì việc thu mua đã bị hạn chế kể từ tháng 12 trong lúc giá rớt.
Tại Đài Loan, phôi thanh chứa vanadium xuất xứ từ Nga được chào giá 380 USD/tấn CFR nhưng giá mua chỉ từ 370 USD/tấn CFR trở xuống. Giá phôi thanh trong nước thấp nên người mua không vội đặt hàng.
Hôm thứ Sáu, Platts đã hạ giá nhập khẩu phôi thanh Đông Á xuống 365-375 USD/tấn CFR từ 370-380 USD/tấn CFR của tuần trước đó.
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc tiếp tục rơi xuống mức thấp mới
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục xu hướng đi xuống trong ngày thứ sáu tuần trước do các đại lý phải hạ giá để kích cầu.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 06/03, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm thấp hơn 20 NDT/tấn (3 USD/tấn) so với thứ Năm tuần trước còn 2.210-2.220 NDT/tấn (353-354 USD/tấn) trọng lượng thực tế gồm 17% VAT.
Đây là mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 02/2012 và cả tuần trước giá đã giảm tổng cộng 80 NDT/tấn.
Mặc dù giá giảm nhưng doanh số tại các đại lý lớn không có sự cải thiện đáng kể so với cuối tháng 02. Nguyên nhân là do giao dịch chỉ vừa mới bắt đầu sau thời gian nghỉ Tết.
Các đại lý nhận thấy nhu cầu không tăng nên chọn cách hạ giá để kích cầu. Sự quan tâm chủ yếu của họ vẫn dành cho tình trạng thép tồn kho lớn do việc gián đoạn kinh doanh trong suốt thời gian nghỉ Tết.
Một số người dự báo tồn kho sẽ chạm đỉnh trong tháng 03, do sức mua trì trệ kéo dài. Thép cây tồn kho tại các đại lý ở Bắc Kinh tăng lên 628.800 tấn hồi thứ sáu tuần trước, tăng 7% so với tuần trước đó và bật lên 65% so với mức trước Tết, theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, Mysteel.
Các nhà quan sát ở Thượng Hải và Bắc Kinh đề cập đến tin tức tuần trước về việc siết chặt kiểm soát các ngành công nghiệp gây ô nhiễm ở tỉnh Sơn Đông, điều này dẫn đến việc sản xuất ở một vài nhà máy thép sẽ bị ngưng trệ.
Họ tin rằng điều này sẽ gây một ảnh hưởng không đáng kể đến việc giảm bớt nguồn cung quá lớn trong nước. Tồn kho cao ở cả hai thành phố vẫn là một mối quan ngại lớn đối với họ.
Gía thép cuộn Biển Đen bình ổn sau khi trượt dài
Gía thép cuộn Biển Đen dường như đã bình ổn sau khi giảm đều trong 6 tháng.
Nhà máy Magnitogorsk Iron and Steel Works (MMK) Nga vẫn chưa chào bán trong tuần qua nhưng dự định giữ nguyên giá. Dù vậy, cơ hội tăng giá dường như là điều xa xôi do thị trường Nga đang rất khó khăn và dường như đơn hàng không tăng do bối cảnh kinh tế trì trệ.
MMK đang đặt mục tiêu giá tại mức 405-420 USD/tấn FOB Biển Đen đối với HRC và 470 USD/tấn đối với CRC. Một thương nhân cho biết MMK đang chào bán tại mức 400-405 USD/tấn FOB đối với HRC, tuy nhiên, ông dự thầu tại mức 390 USD/tấn FOB và đang chờ xác nhận. Mặc dù giá dự thầu thấp, một thương nhân nghĩ rằng giá có thể tăng do các đối thủ Trung Quốc cũng đang đặt mục tiêu tăng giá vừa phải khi trở lại thị trường, cùng thời điểm đồng Rub đã tăng trở lại gần đây so với dolla.
Nhà máy Metinvest Ukraina đã chào bán thép cuộn tháng 4 tại mức 410-430 USD/tấn CIF Châu Âu/ Thổ Nhĩ Kỳ đối với HRC và 490-505 USD/tấn CIF đối với CRC. Một khách hàng Bulgari cho biết đã đặt mua một đơn hàng HRC Ukraina không rõ khối lượng tại mức 370-375 Euro/tấn (408-414 USD/tấn) CFR Burgas.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá chào Ukraina đạt mức 390-400 USD/tấn FOB trong khi giá chào Nga đạt mức 400-410 USD/tấn FOB. Platts định giá HRC Biển Đen tại mức 387.20 USD/tấn, tăng 2.50 USD/tấn trong ngày thứ sáu. CRC vẫn không đổi tại mức 472.50 USD/tấn.
HRC Trung Quốc giảm ngày thứ ba, ở mức thấp nhất kể từ tháng 03/2002
Giá giao ngay HRC ở Thượng Hải giảm ngày thứ ba sau Tết do sức mua trì trệ kéo dài và quặng sắt tiếp tục lún sâu.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải ở mức 2.500-2.530 NDT/tấn (400-405 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 20 NDT/tấn so với thứ Năm, tức mức trung bình 2.515 NDT/tấn. Đây là mức thấp nhất kể từ ngày 31/3/2002.
Nhiều thương nhân ở Thượng Hải giao dịch HRC Q235 5.5mm được sản xuất từ Yanshan Iron & Steel với giá 2.500 NDT/tấn và từ Benxi Iron & Steel và Anshan Iron & Steel lần lượt có giá 2.510 NDT/tấn và 2.530 NDT/tấn. Tuy nhiên, các giao dịch vẫn còn hạn chế.
Nhu cầu vẫn còn suy yếu do thị trường chưa hoàn toàn khôi phục trở lại sau Tết. Ngoài ra, HRC giao sau dần đang bị trì trệ trong suốt và sau Tết, làm hàng tồn kho gia tăng. Giá quặng sắt sụt giảm cũng là một yếu tố khiến giá HRC lao dốc.
Trên sàn Dalian Commodity Exchange, hợp đồng quặng sắt tháng 09 giao sau chốt ở mức 447 NDT/tấn hôm thứ Sáu, giảm 2% so với ngày giao dịch trước đó. Một vài người có triển vọng bi quan về thị trường sắp tới và không có hy vọng hai cuộc họp Quốc hội ở Bắc Kinh diễn ra hai tuần tiếp theo sẽ đạt được nhiều tin tức tốt lành.
Gía phế Mỹ bình ổn
Gía phế Mỹ bình ổn trong ngày thứ sáu do các nhà máy đã bắt đầu tìm kiếm phế trong bối cảnh lo lắng về hàng tồn kho, vận chuyển phế và khả năng tăng giá tháng 4.
Các mức giá thấp so với tháng 2 được chốt hồi đầu tuần này đã không còn nữa trong ngày cuối tuần và hầu như giá bán không đổi so với tháng 2.
Nguồn cung phế vẫn còn là một nỗi lo. Nguồn cung phế vận chuyển tới các nhà buôn phế đã cạn kiệt sau khi giá giảm 100 USD/tấn trong tháng 2 và nguồn cung tới các nhà máy giảm mạnh do các vấn đề giao thông.
Các nhà máy Southeast đã chốt giao dịch trong ngày thứ sáu, bao gồm các đơn hàng giá không đổi cho tất cả các loại phế.
Platts vẫn duy trì giá phế vụn không đổi tại mức 260 USD/tấn giao tới Midwest trong ngày thứ sáu.
Hầu hết các thành viên thị trường đồng tình rằng đà giảm tự do của giá phế mà đã bắt đầu sau khi chốt đơn hàng tháng 1 đã đến hồi dừng lại.
Các nguồn tin khác lạc quan về giá phế dựa trên số lượng yêu câù trong ngày thứ sáu. Họ tin rằng giá phế đã chạm đáy và nhiều nhà máy đã trở lại thu mua.