Giá ferrochrome Trung Quốc không đổi trên một thị trường ổn định
Hôm thứ Tư, giá giao ngay trong nước của ferrochrome 50% Cr là 6.450-6.600 NDT/tấn (tương đương 79-81 cents/lb) gồm 17% VAT, sau khi các nhà máy lớn trong nước duy trì giá mua tháng 04, trong lúc tình hình nguồn cung cải thiện và nhu cầu ổn định.
Cả Baosteel và Jiuquan Iron & Steel hồi đầu tháng 04 đều duy trì giá mua của mình. Riêng Tsingshan Holding thì lại giảm 50 NDT/tấn, nhưng giá sau khi giảm cũng bằng với giá của Baosteel và Jiuquan Steel.
Nguồn cung cũng có vẻ như hạn chế so với vài tuần qua do một số nhà máy ở miền nam Trung Quốc và Nội Mông Cổ bắt đầu hoạt động trở lại, khối lượng nhập khẩu cũng cao. “Hiện giờ chắc chắn là sẽ dễ dàng hơn để thương lượng”.
Một vài nhà sản xuất ở tây bắc Tứ Xuyên khôi phục lại hoạt động do đã có đủ điện vì khu vực phụ thuộc thủy điện bước vào mùa mưa. Các nhà sản xuất ở Nội Mông Cổ đã đóng cửa hồi tháng 03 để giảm bớt ô nhiễm trong chuyến viếng thăm của Ủy ban Thế vận hội Quốc tế tới Bắc Kinh để chọn ra nơi tổ chức Olympics Mùa đông 2022.
Nguồn cung theo các hợp đồng dài hạn tới những nhà máy thép ổn định. Tuy nhiên, tại các nhà sản xuất đang giữ mức tồn kho thấp mà người mua yêu cầu giao ngay sẽ cần phải trả ở mức giá cao hơn.
Nhu cầu từ các nhà máy thép vẫn ổn vì việc cắt giảm sản xuất không quá nghiêm trọng mặc dù giá và nhu cầu thép không gỉ suy yếu.
CRC Trung Quốc bị sức ép do nguồn cung trong nước quá lớn
Thị trường CRC ở Trung Quốc vẫn chưa có bất kỳ sự cải thiện nào về giá và nhu cầu. Mặc dù tháng 04 thường là mùa bảo trì của nhà máy, nhưng lượng CRC bị cắt giảm sẽ rất hạn chế do đó nguồn cung quá mức sẽ còn kéo dài.
CRC tồn kho tại 23 thành phố lớn tuần trước tăng 8.000 tấn lên 1,507 triệu tấn tính đến ngày 03/4, kết thúc thời gian giảm liên tục suốt tháng 03.
Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết mức tăng tồn kho chỉ nhỏ nhưng ghi nhận là tốc độ bán hàng của các đại lý chậm lại khi giá CRC giảm. Bên cạnh nhu cầu trì trệ, giá CRC đi xuống cùng với quặng sắt cũng đang gây sức ép lên giá CRC.
Tại Platts, giá CRC giao ngay ở Thượng Hải đã giảm tổng cộng 55 NDT/tấn từ ngày 31/3 tới đầu tháng 04 còn 3.120 NDT/tấn (503 USD/tấn) hôm 07/4, trong khi tuần trước đó chỉ giảm 10 NDT/tấn.
Một thương nhân khác ở Thượng Hải cho biết một nhà máy lớn như Tangshan Iron & Steel và Shougang, đã lên kế hoạch bảo trì dây chuyền cán nguội tháng này, nhưng ông suy đoán nguồn cung sẽ giảm một chút từ các nhà máy này.
“Trước hết, sản lượng bị ảnh hưởng bởi kế hoạch bảo trì sẽ không đáng kể, và các nhà máy thường tích trữ một lượng thép trước để bù đắp sản lượng bị mất”. Ông nghi ngờ rằng giá CRC sẽ không có bất kỳ cơ hội phục hồi nào trong tháng này do tồn kho thị trường và sản lượng của các nhà máy đều ở mức cao.
Nhập khẩu thép tấm Mỹ đạt mức cao 140.000 tấn
Sản lượng thép tấm cắt dọc nhập khẩu vào Mỹ trong tháng 3 cao hơn mức 110.000 tấn trong 13 tháng liên tiếp.
Tổng sản lượng nhập khẩu trong tháng 3 đạt mức 140.118 tấn, giảm so với mức 162.754 tấn tháng 2 nhưng cao hơn cùng kỳ năm ngoái (111.209 tấn).
Nhập khẩu thép tấm cắt từ Hàn Quốc là 37.815 tấn, gần gấp đôi so với bất cứ nước nào khác. Nhập khẩu từ các nước lớn khác là Pháp (19.907 tấn), Nhật Bản (14.075 tấn), Đức (13.796 tấn), Canada (12.938 tấn) và Braxin (11.302 tấn).
Gía chào nhập khẩu đạt mức 5525-535 USD/tấn CIF Houston giao tháng 7, tuy nhiên không thu hút được nhiều người mua.
Tồn kho thép tấm trong tháng 2 giảm 2% so với tháng 1 còn 1.28 triệu tấn. Tồn kho thép tấm tháng 2 năm nay vẫn cao hơn 30.9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Gía thép tấm nội địa cũng ổn định tại mức 615-625 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ trong khi thép nhập khẩu đạt mức 525-535 USD/tấn CIF Houston.
Các nhà máy thép dài Mỹ giữ nguyên hoặc tăng nhẹ giá thu mua phế
Các nhà máy Đông Nam Mỹ đã chốt giao dịch phế tháng 4 vào cuối ngày thứ 3 và đầu ngày thứ 4 tại mức giá bình ổn tới tăng nhẹ so với tháng 3 nhờ tiêu thụ từ các nhà máy thép dài tăng.
Các nhà buôn phế có thể thu được giá cao hơn trong vài trường hợp. Gía phế cũ đi từ mức bình ổn tới tăng thêm 10 USD/tấn và phế chất lượng cao cũng đi từ ổn định tới tăng thêm 5 USD/tấn.
Vài nhà máy Southeast thu mua phế vụn tại mức 265-270 USD/tấn đã gồm phí giao trong khi có người còn thu mua tại mức 275-280 USD/tấn để rút nguyên liệu từ Midwest và các khu vực khác có sức mua không mạnh.
Gía tại Southeast cao hơn Midwest nhưng hầu như giá không đổi so với tháng trước.
Platts vẫn duy trì giá phế vụn tại mức 262.50 USD/tấn giao tới Midwest trong ngày thứ tư.
Gía chào xuất khẩu thép cây TNK tới Mỹ hầu như ổn định
Gía chào bán thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ hầu như bình ổn mặc dù các đơn hàng lớn có thể nhận thêm chiết khấu.
Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ không sẵn sàng hạ giá do giá phế tăng. Đây có thể là động lực hỗ trợ giá thép dù vài khách hàng có thể đã đàm phán được mức giá thấp hơn.
Một lô hàng 10.000 tấn thép cây có thể được đặt mua tại mức giá 445-450 USD/tấn CFR Houston. Thép cây Nhật Bản vẫn cạnh tranh với giá mua từ một thương nhân là 450 USD/tấn CFR Houston.
Thổ Nhĩ Kỳ đã thống trị thị trường thép cây nhập khẩu Mỹ trong năm qua. Trong tháng 3, 80% trong tổng số 285.957 tấn thép cây xuất khẩu vào Mỹ là từ Thổ Nhĩ Kỳ. Nhật Bản cũng đang ngày càng mở rộng địa bàn, chiếm tới 18% sản lượng thép cây nhập khẩu vào Mỹ trong tháng 3.
Trong khi đó, vận tải bằng tàu trì hoãn và sự tắc nghẽn tại cảng Houston có thể làm nguyên liệu bị giao trễ cho tới cuối tháng 4.
Một thương nhân cho biết đang lo lắng về khả năng dư cung tại vịnh Gulf. Tuy nhiên, mùa xuân là thời điểm tiêu thép thép cây tốt. Ông cho biết doanh số tháng 3 vẫn bằng mức năm trước nhưng có vài người đã đặt mua ít hơn.
Thương nhân này cũng dự báo sẽ mua vào trong cuối tuần này với giá 445-450 USD/tấn CFR Houston. Ông tin rằng giá này sẽ vẫn được duy trì trong thời gian ngắn.
Một thương nhân cho biết các nhà máy đang tìm kiếm giá 460 USD/tấn CFR Houston nhưng các đơn hàng lớn có thể được đặt mua tại mức giá 450 USD/tấn CFR.
Platts vẫn duy trì giá thép cây nhập khẩu hàng ngày tại mức 457-468 USD/tấn CIF Houston.
Giá cuộn trơn Trung Quốc giảm do quặng sắt suy yếu
Chào giá cuộn trơn Trung Quốc xuất khẩu tiếp tục lao dốc trong tuần này giữa lúc giá quặng suy yếu. Nhưng sức mua vẫn còn mỏng vì các khách hàng ở nước ngoài muốn theo dõi xem liệu giá có giảm thêm hay không. Giá bán trong nước của cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm tiếp tục rớt ở Thượng Hải và Platts định giá giảm 60 NDT/tấn so với tuần trước còn 2.290-2.300 NDT/tấn (369-371 USD/tấn) gồm 17% VAT.
Hôm thứ Tư, Jiujiang Wire Rod đã giảm giá xuất khẩu cho cuộn trơn chứa bo xuống 100 NDT/tấn, đây là lần hạ giá thứ hai của nhà máy sau khi giảm 150 NDT/tấn vào tuần trước. Các thương nhân đã giảm chào giá xuất khẩu cho thép của Juijiang hôm thứ Tư xuống khoảng 15 USD/tấn so với tuần trước còn 377-378 USD/tấn FOB. Giá thấp hơn cũng được báo cáo từ một vài nhà máy quy mô nhỏ hơn ở miền bắc với khoảng 307 USD/tấn FOB.
Một số thép dây chứa bo được bán trong tuần trước với giá tầm 390 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển cỡ 12-14 USD/tấn) nhưng tuần này người mua đã hạ giá xuống 370 USD/tấn CFR, trong bối cảnh quặng sắt giảm dưới 50 USD/dmt. Chào giá Trung Quốc cho cuộn trơn chứa cr cũng xuống còn 355-358 USD/tấn FOB, so với yết giá 368-372 USD/tấn FOB của tuần trước.
Một nhà xuất khẩu đang chào bán cuộn trơn chứa cr với giá 387 USD/tấn CFR và 405 USD/tấn CFR cho cuộn trơn chứa bo, một nhà nhập khẩu ở Manila cho biết. Người mua ở Philippines đang đặt mục tiêu mua với giá 370 USD/tấn CFR cho cuộn trơn chứa cr (phí vận chuyển 27-28 USD/tấn) trong tuần trước, trước khi nghỉ lễ Phục sinh. Ông cho rằng giá mua mục tiêu hiện nay đã giảm xuống khoảng 365 USD/tấn CFR.
Một lô cuộn trơn đường kính 5.5mm 5.000 tấn được đặt mua trong suốt tuần kết thúc ngày 27/3 với giá 387 USD/tấn CFR Thái Lan cho thép chứa cr và 401 USD/tấn CFR cho loại chứa bo. Thư tín dụng của giao dịch này đã được nhận hồi thứ năm tuần trước.
Hôm 8/4, Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm từ 355-365 USD/tấn, giảm 4 USD/tấn so với tuần trước.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 360 USD/tấn FOB Biên Đen trong ngày thứ tư, bình ổn so với ngày trước đó.
Gía chào tiếp tục đạt mức cao 375-385 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy vào cảng nhập khẩu. Một nhà máy Ukraina đang chào bán tại mức 376 USD/tấn CFR Aliaga. Tuy nhiên, theo các nguồn tin thì mức giá có thể chấp nhận được là 360 USD/tấn FOB và thường cho các lô hàng giao nhanh.
Một số nhà máy thép TNK tăng giá thu mua phế trong nước
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thu mua phế DKP nội địa tính theo đồng Lira do giá phế nhập khẩu tương đối cao trong khi giá phế tàu tính theo đồng dolla cũng tăng nhẹ.
Một trong những nhà máy lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu và nhà máy Kroman đều đã tăng giá thu mua phế DKP thêm 20 TRY/tấn, đạt mức 660 TRY/tấn (255 USD/tấn) trong ngày thứ tư do giá phế nhập khẩu tăng trong mấy tuần gần đây và đồng Lira tăng so với dolla.
Gía nhập khẩu phế HMS đạt mức 262-265 USD/tấn CFR kể từ cuối tuần qua với vài giao dịch được chốt. Mặc dù các nhà máy thép vẫn đang có trữ lượng hàng tồn phế cao nhưng có thể trở lại thị trường trong những ngày tới.
Gía thu mua phế tàu tính theo đồng dolla cũng tăng nhẹ trong tuần này. Phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, Ege Celik, Ozkanlar và IDC) tại mức 260 USD/tấn.
HRC Ấn Độ trong nước tiếp tục rớt giá
Xu hướng đi xuống của giá HRC Ấn Độ trong nước vẫn tiếp diễn trong tuần này sau khi các nhà máy đã hạ giá xuất xưởng tháng 04, Trong khi đó người mua đang đợi xem như thế nào, dự báo giá sẽ giảm sâu hơn.
Nhu cầu thép đã bị ảnh hưởng bởi các dự án xây dựng trì trệ, cho thấy việc cắt giảm giá là nhằm kích cầu, đại diện một nhà máy ở Mumbai giải thích. Nhưng ông thừa nhận là sự bất ổn của giá có thể gây ra hiệu ứng trái ngược do khách hàng chần chừ để xem liệu giá có giảm thêm nữa hay không, hay chính xác là họ muốn biết chuyện gì đang diễn ra.
Chào giá HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên giảm còn 30.500-32.000 rupees/tấn (490-514 USD/tấn) xuất xưởng trong tuần này, giảm 1.000-1.500 rupees/tấn kể từ tuần trước.
Đại diện một nhà máy khác cho biết giá đã giảm liên tục trong 6 tháng qua, với 500-750 rupees/tấn cho mỗi tháng. Hồi đầu tháng 10 năm ngoái, giá HRC loại dày từ 3mm trở lên chỉ có 34.500-35.500 rupees/tấn.
“Không ai sẵn lòng mua vì thị trường không chắc là liệu giá đã chạm đáy hay chưa”, ông nói, khách hàng cũng chỉ mua đủ nhu cầu tức thì, chứ không tích trữ.
Nhu cầu trì trệ cũng được phản ánh thông qua tình hình kinh doanh im ắng hơn trên thị trường nhập khẩu. Người mua đi tìm mức giá thấp hơn nhưng các nhà máy Trung Quốc từ chối thương lượng. Ông cho biết đã không bán được tấn HRC nhập khẩu nào trong ba tháng qua. Các nhà nhập khẩu cho biết chào giá HRC S400 dày từ 3mm trở lên tuần này tiếp tục dao động quanh mức 365-375 USD/tấn FOB (400-410 USD/tấn CFR hay 24.919-25.542 rupees/tấn). Tuy nhiên, không có giao dịch nào được nghe nói.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 410 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ tư.
Các nhà máy đang tìm cách tăng giá thép thêm 10 Euro/tấn nhưng người mua không chấp nhận nên giá thị trường vẫn ở mức 410 Euro/tấn.
Gía chào từ Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp đối với HRC trong khi CRC được chào bán tại mức 450 Euro/tấn CFR.
Gía HRC Mỹ vẫn bình ổn trước sức ép
Thị trường HRC Mỹ vẫn chịu nhiều sức ép giảm giá trong ngày hôm qua, song giá giao dịch hầu như đều không đổi.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 450-460 USD/tấn và CRC tại mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Gía HRC tuần này thực sự có suy yếu một ít với một nhà máy chào bán tại mức 450 USD/tấn. Trong khi đó, có nhà máy còn đồng ý giá bán 445 USD/tấm cho đơn hàng 600 tấn nhưng lúc đầu nhà máy này có phần do dự.
Gía chào bán HRC từ một nhà máy tích hợp tại Midwest là 460 USD/tấn. Thị trường hiện vẫn trầm lắng nhưng có thể sẽ nhận được nhiều động lực hỗ trợ giá trong thời gian tới từ việc cắt giảm sản lượng cộng với các điều tra chống bán phá giá đối với thép nhập khẩu.
Trong khi đó, có nguồn tin cho rằng mức giá đáy đối với những đơn hàng lớn có thể là 420-440 USD/tấn.
Gía phôi thanh tăng tại TNK dù nhu cầu tiêu thụ yếu ớt
Gía phôi thanh trong nước và nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đều đã tăng nhẹ theo giá phế nhập khẩu trong mấy tuần gần đây mặc dù sức mua vẫn yếu ớt.
Gía chào phôi thanh từ CIS hiện đạt mức 375-380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu, tăng 10 USD/tấn so với tuần trước mặc dù có rất ít người mua trong bối cảnh thị trường thép thành phẩm suy yếu.
Với tình trạng thiếu tiền mặt tiếp diễn do tỷ giá dao động đã ảnh hưởng tới quyết định thu mua của khách hàng. Tuy nhiên, một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt mua phôi thanh CIS hồi đầu tuần tại mức giá 375 USD/tấn CFR dù thông tin này chưa được xác nhận.
Gía phôi thanh trong nước dao động trong khoảng 385-395 USD/tấn xuất xưởng. Nhà máy Kardemir dự báo sẽ bán phôi thanh trở lại vào thị trường trong những ngày tới.
Công ty này đã ngưng bán phôi thanh trong ngày 27/3 sau khi nhận được các đơn đặt hàng có khối lượng tổng cộng là 60.000 tấn trong vòng 2 ngày khi nguồn phôi thanh nội địa thiếu hụt. Gía bán phôi thanh chuẩn đạt mức 380-385 USD/tấn xuất xưởng, tăng 10 USD/tấn so với giá niêm yết trước đó.
Xu hướng giá phế và nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm cũng ảnh hưởng tới việc thu mua phôi thanh trong những ngày tới.