Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 09/05/2016

Giá tấm mỏng Mỹ tăng vọt trong thị trường người bán

Giá HRC và CRC ở Mỹ đã tăng vọt hôm thứ Sáu do áp lực tăng giá duy trì cũng như người mua buộc phải mua với giá cao hơn với với thời gian giao nhận kéo dài.

Platts nâng định giá ngày HRC và CRC lên mức 600-610usd/tấn ngắn và 800-820usd/tấn ngắn hôm thứ Sáu, tương ứng, tăng từ 560-580usd/tấn ngắn và 740-760usd/tấn ngắn. Cả hai giá này đều được chuẩn hóa theo giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Giá tăng vọt sau khi chào giá nhà máy tăng một cách nhanh chóng tuần trước, trong khi hoặc là thời gian giao hàng kéo dài hơn hoặc là việc mở bán đơn hàng được chốt lại, khiến người mua gặp giới hạn trong việc lựa chọn nguồn cung cấp. Trong khi việc mua hàng của một trung tâm dịch vụ tuần trước ở mức 800usd/tấn ngắn CRC và HDG và 600usd/tấn ngắn cho HRC, thì có hai nhà cán lại hiện vẫn chưa mở bán đơn hàng HDG.

Trung tâm dịch vụ thứ hai cho biết vẫn có thể mua để tích trữ vào kho đầu tuần tại mức giá 600usd/tấn ngắn và 800usd/tấn ngắn cho HRC và CRC tương ứng. Ngoài ra trung tâm cũng cho biết mình có các khách hàng chốt giá mua ở mức 610usd/tấn cho HRC và 820usd/tấn ngắn cho CRC.

Thời gian vận chuyển HRC đang trải rộng từ cuối tháng 06 đến đầu tháng 08, và thời gian giao hàng tháng 08 từ một nhà máy tích hợp cho HDG sẽ có nhiều khả năng bị chậm trễ.

Một nguồn tin nhà máy cho biết giá bán HRC gần đây ở Midwest là 610-620usd/tấn cho sản lượng tháng 06 và hầu hết những người khác dường như đã bỏ mức giá đó để mục tiêu giá mới.

Một nguồn tin bên mua cho biết giá cao hơn vẫn tiếp tục nghe nói đến trong thị trường với một vài nhà máy mini chốt đơn hàng HRC cho khách hàng lớn trong phạm vi giá 610usd/tấn ngắn.

Đà tăng giá của HRC và CRC nội địa không bị đe dọa bởi viễn cảnh sự gia tăng lượng đơn hàng nhập khẩu khổng lồ do thị trường đang khan hiếm lựa chọn nhập khẩu.

Chênh lệch giá lớn tại thị trường phế Mỹ

Đàm phán mua phế tháng 05 cuối cùng cũng hoàn tất vào tối thứ Sáu với giá chốt nằm trong phạm vi rộng do những khác biệt về nhu cầu tiêu thụ của từng khu vực cũng như loại phế.

Thị trường xuất khẩu mạnh mẽ đã gây sức ép lên người mua là nhà máy Mỹ nằm ở khu vực vùng ven biển do công suất sản xuất ở mức cao của các nhà máy mini. Phế thượng hạng là phổ biến nhất trong khi nhu cầu tiêu thụ trì trệ ở Midwest do các nhà máy thép tấm, nhà máy tích hợp và nhà máy thép cây cắt giảm kế hoạch thu mua. Ngoài ra nguồn phế vụn dồi dào hơn so với ước tính.

Mặc dù có sự khác biệt về nhu cầu tiêu thụ và lo lắng chung về thị trường toàn cầu với tỉ lệ giá phế so với quặng sắt đang tăng vượt ngưỡng 5:1, các đại lý vẫn đạt được mức tăng giá trong tháng 05 cho tháng thứ ba liên tiếp. Mức tăng ở mức thấp là 15-20usd/tấn dài ở Chicago và Detroit cho phế cũ và ở mức là 50-70usd/tấn dài ở miền tây thị trường Mỹ.

Nhà máy ven biển là những ngươi đầu tiên trong thị trường cạnh tranh giá chào với các nhà xuất khẩu để thu hút phế đến khu vực ven biển. Nhà máy ở Đông Pennsylvania và New Jersey mua HMS I ở mức 250-260usd/tấn dài, 260-270usd/tấn dài cho phế S&P và cho phế vụn là 290-295usd/tấn dài, tăng 40-45usd/tấn dài so với giá tháng 04. Cho nguồn cung phế từ xa, một nhà máy New Jersey trả 290usd/tấn dài cho HMS I. Giá ở Virginia ở mức 26-270usd/tấn dài cho HSM I, 270-280usd/tấn dài cho P&S và 285usd/tấn dài phế vụn vận chuyển đến nhà máy.

Chicago có nhu cầu tiêu thụ yếu nhất ở Mỹ nhưng giá vẫn tăng 15-20usd/tấn dài lên mức 285-295usd/tấn dài cho phế vụn.

Các thị trường khác tiếp tục đàm phán đầu tuần trước cho đến khi tin tức cho biết một lô hàng phế rời HMS 80:20 của Mỹ được bán đến Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 330usd/tấn CFR. Điều này đã hỗ trợ vị thế của đại lý và buộc một số nhà máy phải tham gia thị trường để bảo toàn nguồn vật liệu. Tại Detroit giá phế vụn tăng 20usd/tấn dài và phế thượng hạng tăng 30usd/tấn dài cho hầu hết các giao dịch trong khi một số nhà máy trả giá cao hơn đối với phế thượng hạng.

Tại Indiana, nhà máy mini trả 235-250usd/tấn dài cho HMS I, 270usd/tấn dài cho phế vụn và 280-300usd/tấn dài cho phế busheling No.1 vận chuyển đến nhà máy. Thị trường Ohio Valley tăng giá 20usd/tấn dài lên mức 230-245usd/tấn dài cho HMS I, 250usd/tấn dài cho P&S và 275usd/tấn dài cho phế vụn. Tại Cleveland, P&S bán ở mức 265usd/tấn dài và phế vụn là 275usd/tấn dài.

Tại vùng Đông Nam phế vụn chốt trong phạm vi giá 285-300usd/tấn dài và 290-310usd/tấn dài đối với phế thượng hạn. Các đại lý vận chuyển phế bằng đường sống đến nhà máy trong khu vực này cho biết giá S&P có là 290-300usd/tấn dài và 305-310usd/tấn dài cho phế vụn.

 Sự rút lui của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ từ thị trường xuất khẩu sau giá mua 330usd/tấn CFR hôm thứ Tư tuần trước đã khiến cho các đại lý phế lo lắng. Một nhà xuất khẩu Bờ Đông đã ngừng chào các giao dịch mua phế ở xa để thu hút nguồn nguyên vật liệu này đến bờ biển.

Khu vực Rocky Mountain giá tăng 20-25usd/tấn dài so với tháng 04. Khu vực miền Tây có mức tăng giá lớn nhất với giá tăng 50-70usd/tấn dài so với tháng 04.

Thổ Nhĩ Kỳ: HRC đạt 600usd/tấn, CRC 700usd/tấn

Các nhà sản xuất HRC và CRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá chào đáng kể cho thị trường trong nước hôm thứ Sáu, song song với với đà đi lên liên tục của phế - đạt 330usd/tấn CFR trong giá mua mới nhất phế HMS 1&2 80:20 của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ - cộng với giá chào nhập khẩu cao hơn.

Ít nhất một trong những nhà máy lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã tái mở bán đơn hàng với giá cao hơn cho hàng giao hàng tháng 07 và bắt đầu chào giá HRC tại mức 590-600usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu. các nhà cung cấp khác cũng tăng giá chào lên, và điều này đã đẩy giá  HRC lên đến 580-600usd/tấn xuất xưởng tại thị trường trong nước hôm thứ Sáu, trong khi giá phổ biến của nhà tích trữ đã vượt ngưỡng 600usd/tấn.

Các nhà máy CIS, đặc biệt là ở Nga, cũng đã bắt đầu đưa ra mức giá mới cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ vào tuần trước. Chào giá HRC cho các lô hàng Tháng 07 đạt 510-530usd/tấn CFR.

Chào giá CRC của  nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước cũng tăng mạnh lên 680-700usd/tấn xuất xưởng thứ Sáu, do ít nhất một trong những nhà máy lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã công bố giá niêm yết ở mức cao  700usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu cho hàng giao tháng bảy, tăng thêm 20usd/tấn, trong khi các nhà sản xuất khác cũng đã nâng giá lên.

Mặc dù tồn kho nói chung ở mức thấp, thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trầm lắng trong tuần qua sau sự gia tăng mạnh về giá. Người mua thường chờ đợi để xem xu hướng rõ ràng hơn. Trong khi đó, người mua có thể tập trung hơn vào hàng mua nhập khẩu trong vài tuần tới, nếu giá nhập khẩu duy trì ổn định hơn so với giá nhà máy trong nước.

Ngày 20/04, Thổ Nhĩ Kỳ đã kết thúc điều tra vào hàng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Nga, Ukraine, Romania và Slovakia không có bất kỳ hành động.

Định giá HRC EU

Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 400-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.

Do phần lớn các văn phòng làm việc ở châu Âu đóng cửa hôm thứ Sáu, cũng như sự vắng mặt của các nguồn tin, Platts duy trì định giá HRC không đổi.

HRC nhập khẩu không đổi ở mức 420-440euro/tấn CIF Antwerp. 

Thép cây xuất khẩu giảm do Trung Quốc và thị trường trầm lắng

Quan ngại về Trung Quốc được cho là đã duy trì và làm đảo ngược xu hướng giá thép cấy xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ cuối tuần trước.

Theo một một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ thì thị trường phôi thanh suy yếu của Trung Quốc đã kéo giá ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm trong cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Người này ước tính mức giá bán thực tế trong phạm vi 490-500usd/tấn FOB.

Kỳ vọng giá bán cao hơn vẫn còn khi một người mua UAE ước tính giá mua lần tới sẽ được thực hiện trong khoảng 520-525usd/tấn dài CFR trọng lượng lí thuyết – tương đương 515-520usd/tấn FOB trong lượng thực tế.

Tâm lí thị trường nhin chung khá ảm đạm với một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết cả thị trường nội địa và xuất khẩu đều không cho thấy bất kỳ mối quan tâm nào đến mức đang gần 520usd/tấn xuất xưởng hay FOB.

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 504usd/tấn FOB hôm thứ Sáu, giảm 1usd/tấn từ thứ Năm.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 504usd/tấn FOB thứ Sáu, giảm 1usd/tấn từ thứ Năm.

Các nguồn tin cho biết nỗ lực tăng giá thép cây hồi đầu tuần đã không thành và tâm lý bi quan liên quan đến thị trường Trung Quốc đã gây tổn thương cho thị trường mặc dù cũng có một vài tín hiệu chấp nhận giá cao hơn.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá thép cây hiện là 490-500usd/tấn FOB. Giá này ngược lại với một thương nhân khác cho rằng giá xuất xưởng và giá FOB tương tự ở mức 495-520usd/tấn.

Một người mua UAE cho rằng giá 520-525usd/tấn CGR Dubai trong lượng lí thuyết có thể được chấp nhận – khoảng 515-520usd/tấn FOB – nhưng hiện chưa có nhu cầu tiêu thụ.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ khác giá 500-520usd/tấn tùy thuộc khu vực, nhưng hiện không có sự chấp thuận mứ giá cao hơn tại thị trường xuất khẩu và địa phương.

Theo một nhà sản xuất và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ thì giá cả đang bắt đầu hạ nhiệt.

Phế tăng hỗ trợ thép cây Thổ Nghĩ Kỳ, trong khi phôi thanh giảm

Giá thép cây trong nước ở Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì mạnh mẽ trong tuần trước được hỗ trợ bởi chi phí phế nhập khẩu cao hơn, mặc dù giá chào phôi thành nhập khẩu do ảnh hưởng xu hướng thị trường hạ nhiệt tại Trung Quốc.

Chào giá thép cây trong nước của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang ở mức 520usd/tấn, với một nhà sản xuất lớn, Icdas, đưa ra mức giá tăng mới hôm thứ Năm, chủ yếu dựa trên sự mất giá mạnh của đồng lira. Công ty này tăng giá thép cây 12-32mm thêm 60TRY(20,5usd)/tấn lên mức1.780TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul, và 1.760 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga - tương đương với 519usd/tấn và 512usd/tấn tương ứng không bao gồm 18% VAT.

Công ty này cũng tăng giá bán cuộn trơn 7-8,5mm thêm một khoảng tương tự 1.840-1.870TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm 18% VAT.

Trong bối cảnh gia tăng liên tục của giá phế, đồng lira mất giá và các đợt tăng giá các nhà máy địa phương, giá thép cây xuất kho ở thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục tăng cường tuần trước. Giá phổ biến của thép cây  đường 8-12mm trong khu vực Marmara tăng lên mức của 1.770-1.800TRY/tấn xuất xưởng (bao gồm 18% VAT) Thứ Sáu.

Đà tăng vọt này bất chấp chào giá phôi thanh nhập khẩu giảm, cộng với nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm thấp hơn trên thị trường. Phôi thanh của Trung Quốc chào giá cho Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống mức dưới 400usd/tấn CFR, trong khi chào giá phôi thanh CIS cũng giảm còn 425-430usd/tấn vào thứ Sáu, giảm khoảng 15-20usd/tấn so với đầu tuần. 

Chào giá phôi thanh của các nhà máy trong nước trong khoảng 445-465usd/tấn xuất xưởng vào ngày thứ Sáu, trong khi giá phế nhập khẩu tiếp tục tăng đáng kể trong tuần qua, đạt 330usd/tấn CFR cho phế HMS I&II 80:20. 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh xuất khẩu hằng ngày của CIS ở mức 417.5usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Sáu, duy trì không đổi trong ngày.

Aso với đà giảm nhanh chóng của giá phôi thanh xuất khẩu Trung Quốc, thị trường Biển Đen chỉ cho thấy mức suy yếu nhẹ trong tuần này. Điều này được giải thích phần lớn là do tuần lễ giao dịch ngắn ngủi, làm giảm đi hoạt động của nhà cung cấp CIS cũng như giá phế và thép thành phẩm tiếp tục mạnh lên ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Một nhà sản xuất ở Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giao dịch phôi thanh CIS vẫn trong khoảng 430-440usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 415-425usd/tấn FOB Biển Đen.

Một thương nhân châu Á cho biết chào giá phôi thanh CIS ở mức 420-439usd/tấn FOB Biển Đen. Thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ thì cho hay nhà máy CIS đã tiếp tục im lặng cho đến giữa tuần khi thị trường đã bắt đầu rõ ràng hơn. Một thương nhân châu Âu cho biết một đơn hàng 20 ngàn tấn hôm thứ Tư ở mức giá 431usd/tấn FOB Biển Đen, cho Thổ Nhĩ Kỳ. Không như một số nguồn tin, người này không cho rằng phôi thanh CIS sẽ giảm xuống mức dưới ngưỡng 400usd/tấn FOB thay vào đó thương nhân này dự đoán giá sẽ chốt ở mức khoảng 420usd/tấn FOB Biển Đen. Nhưng một thương nhân khác nói rằng hôm thứ Sáu phạm vi giá 410-420usd/tấn FOB không còn là mức thực tế để nhà máy CIS đạt được.

Platts duy trì định giá ở mức 417.5usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu do giá thực tế khan hiếm cũng nhưng nguồn tin chia rẽ quan điểm về xu hướng thị truờng Biển Đen trong bối cảnh hoạt động mua bán trì trệ trong thị trường.

Giá thép cây sản xuất tháng 05 được điều chỉnh do chào giá giảm

Tuần trước giá nội địa thép cây Nga chốt ở mức chênh lệch, với khoảng cách dài nhất là 2.500 Rúp (38usd/tấn) – giữa giá của một số nhà sản xuất cho thép cây dày từ 14mm. Các nguồn tin nhà máy cho biết sự khác biệt bất thường này là do sự thiếu hụt tính cạnh tranh trong thị trường.

Dựa theo nguồn tin nghe được một nhà máy sản xuất thép cây lớn đang chốt giá cho sản lượng tháng 05 ở mức 35.700 Rúp (542usd)/tấn cho thép cây 12mm và 35.300 Rúp (536usd)/tấn cho thép cây 14mm, vận chuyển đến Moscow (tương đương 30.250 Rúp (460usd)/tấn và 29.915 Rúp (455usd)/tấn, không bao gồm 18% VAT.), Platts giảm định giá thép cây 12-14mm của Nga 250 Rúp (4usd)/tấn từ mức cùng kỳ tuần trước đó còn 29.900-30.250 Rúp (454-460usd)/tấn CPT Moscow.

Giá thép cây Moscow do đó đã tăng vọt thêm 110usd/tấn kể từ đầu tháng 04.

Gerdau điều chỉnh mức tăng thép dầm, tăng giá thanh MBQ

Gerdau North America hôm thứ Sáu đã điều chỉnh lại thông báo tăng giá thép dầm, giảm mức tăng từ 40usd/tấn ngắn còn 30usd/tấn ngắn, và thông báo mức tăng 10usd/tấn ngắn cho thép cây thương phẩm.

Nucor, Steel Dynamics Inc. và Commercial Metals Co. đầu tuần này đã tăng giá thép cây thương phẩm và thép dầm 30usd/tấn ngắn.  

 

Giá thép dầm và thép hình nhẹ tăng thêm 10usd/tấn ngắn sau khi đã 20usd/tấn ngắn trước đó. 

Thị trường thép suy yếu kéo giá quặng xuống theo

Giá quặng sắt giao ngay đã đã chao đảo trong tuần trước, do bởi sự sụt giảm của thị trường thép Trung Quốc ở cả giá giao ngay và hợp đồng kỳ hạn.

Platts 62% Fe IODEX giảm 7,5 USD/dmt  so với tuần trước và chốt tại 58,35 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu. Thị trường quặng và thép của Trung Quốc đã lao dốc mạnh sau khi Bắc Kinh can thiệp nhằm làm hạ nhiệt giao dịch khổng lồ trên các hợp đồng ferrous tương lai nhất định- giá giao ngay cho phôi vuông ở Đường Sơn đã rớt 10% xuống 2.250 NDT/tấn (345,08 USD/tấn) so với tuần trước, trong khi thép cây và HRC cũng rớt mạnh.

Việc kinh doanh thép chậm lại trong tuần trước và hậu quả là tồn kho tăng. Giá thép giảm đã dẫn đến nhiều nhà máy trì hoãn kế hoạch thu mua quặng sắt sau khi tích trữ khá nhiều trong những tuần trước đó- nghe nói các nhà máy đã có trung bình khoảng 20 ngày tồn kho quặng sắt.

 “Được hỗ trợ bởi có đủ hàng dự trữ trong tay, các nhà máy không hề vội tái tích trữ. Hầu hết người mua vẫn đang đợi thị trường bình ổn hoặc cho thấy dấu hiệu phục hồi và rồi sẽtái tích trữ một ít”.

Mặc dù một số thương nhân có lượng quặng sắt dữ trữ ít nhưng họ cũng không dám mua nhiều. Một thương nhân ở miền đông cho biết: “Chúng tôi không có nhiều lô hàng để chào bán bây giờ nhưng cũng không mua trong tuần này. Hơi mạo hiểm để lấy hàng khi niềm tin của người mua rất thấp”.

Thế nhưng được hỗ trợ bởi lợi nhuận sản xuất thép tích cực nên các lô hàng với hàm lượng sắt cao vẫn được ưa chuộng- cụ thể giá quặng cục giao ngay đã tăng 0,05 USD/dmtu so với tuần trước lên 0,213 USD/dmtu.

Giá phôi thanh Trung Quốc quay đầu giảm ở Đông Á

Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Á suy yếu đáng kể trong tuần trước, kết thúc những đợt tăng giá chóng vánh. Sự giảm tốc này là do nguồn cung xuất khẩu tăng và niềm tin suy yếu hơn ở Trung Quốc.

Platts đã hạ giá phôi thanh 120/130mm xuống 380-390 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, giảm từ 400-415 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức trung bình 385 USD/tấn CFR, thấp hơn 22,5 USD/tấn so với tuần trước đó.

Khoảng 20.000 tấn phôi thanh Q275 150mm từ Trung Quốc, giao giữa tháng 6, được đặt mua trước thứ Sáu với giá 385 USD/tấn CFR Philippines.

Chào giá cho phôi thanh Q275 130mm có giá 395 USD/tấn CFR Manila, với loại Q235 130mm được yết giá 390 USD/tấn CFR Thái Lan. Những mức giá này là cho phôi mới giao cuối tháng 6.

Tuy nhiên, các thương nhân ở Đông Nam Á cho biết chào giá tới  Manila cho phôi thanh Q275 120/130mm để giao tháng 6 ở mức 380-390 USD/tấn CFR Manila.

Tại Thái Lan, chào giá giao tháng 5 và 6 cho phôi Q275 150mm được nghe nói là 380-390 USD/tấn CFR. Nhưng không có giao dịch nào được nhắc tới trong tuần trước.

Trong khi đó, giá phôi thép tại thành phố Đường Sơn hôm 6/5  đã giảm 60 NDT/tấn (9 USD/tấn) xuống 2.230 NDT/tấn (344 USD/tấn). Như vậy tính tới thứ sáu giá phôi thép đã giảm tổng cộng 260 NDT/tấn (40 USD/tấn) so với 2.490 NDT/tấn của ngày 29/4.

Cũng trong ngày thứ sáu, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn  Shanghai Futures Exchange tăng 27 NDT/tấn (1,2%) so với ngày trước đó và chốt tại 2.336 NDT/tấn. Nhưng mức tăng này là nhẹ so với 244 NDT/tấn tức 9,5% giá trị đã “bốc hơi”.

Người mua đang tránh xa thị trường bởi vì họ bị mất bình tĩnh trước đà lao dốc liên tục được chứng kiến trên thị trường thép tương lai và giao ngay kể từ ngày lễ Lao động vào đầu tuần trước.

Giá thép không gỉ Châu Á bị sức ép khi niken giảm

Giá CRC không gỉ của Đài Loan và Hàn Quốc loại  304 2B 2mm vẫn duy trì mức 1.800-1.850 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu trong bối cảnh giao dịch trầm lắng.

Người mua đang trong tâm trạng chờ đợi vì thị trường thép không gỉ đã bị sức ép từ giá niken suy yếu. Giá niken đã bắt đầu sụt giảm từ thứ Tư tuần trước và tiếp tục xu hướng đi xuống cho tới thứ Sáu. Điều này đã làm ảnh hưởng xấu tới tâm lý thị trường và gây áp lực lên thị trường thép không gỉ trong khu vực, trong bối cảnh chào giá từ nhà máy cao hơn- cụ thể chào giá từ các nhà cung cấp Đài Loan đã tăng hơn 150  USD/tấn trong tuần trước.

Giao dịch vẫn còn chậm trong tuần trước. Người mua muốn đợi bên lề để chờ thị trường rõ ràng hơn. Nhưng mặt khác, giá cao hơn so với giá niêm yết được dự báo cho thấy các nhà máy Đài Loan có lẽ đã có đủ đơn hàng trong tháng này. Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc lại đóng cửa hôm thứ Năm và Sáu để nghĩ lễ quốc gia kéo dài 3 ngày (5-8/5).

Tại thị trường Trung Quốc, giá giao ngay cũng rớt hôm thứ Sáu giữa bối cảnh tâm lý bi quan.

Lượng hàng giao từ các nhà máy được cho là sẽ nhiều hơn trong tháng này. Giá niken sụt giảm nên một số thương nhân đã giảm giá tới 500 NDT/tấn (77 USD/tấn) để thanh lý hàng tồn vì suy đoán giá sẽ rớt sâu hơn. Sau khi thị trường giao ngay tăng gần 2.000 NDT/tấn trong tháng 4 thì giá của các nhà xuất khẩu trở nên quá cao để được người mua chấp nhận.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME chốt tại 9.280-9.300 USD/tấn hôm 5/5, giảm 167 USD/tấn so với tuần trước.

Thép cây Châu Á tiếp tục sụt giảm trong lúc tâm lý bi quan

Giá giao ngay của thép cây ở Châu Á tiếp tục suy yếu vào ngày thứ Sáu khi khách hàng vẫn từ chối thu mua trong bối cảnh duy trì mối lo giá sẽ tiếp tục đà lao dốc.

Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm giảm 50 cents so với ngày trước đó xuống còn 389-394 USD/tấn Trung Quốc trọng lượng thực tế. Còn ở trong nước, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được định giá 2.795-2.805 NDT/tấn (430-432 USD/tấn) xuất xưởng Bắc Kinh trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 60 NDT/tấn (9 USD/tấn) so với ngày trước đó.

Chào giá Trung Quốc tới Singapore dao động từ 400-420 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. Mức giá sàn tương đương 400 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Trong khi đó, cũng có nhiều gợi ý cho chào giá 390 USD/tấn CFR Singapore, mức giá này được tin là cho hàng tồn mà một thương nhân đã đặt mua với giá thấp hơn trước đó.

Đại diện nhà máy Trung Quốc khăng khăng rằng công ty ông vẫn đang chào giá 440 USD/tấn CFR Singapore vào đầu tuần trước, nhưng bây giờ đang cân nhắc bán với giá khoảng 430  USD/tấn CFR.

Bởi vì đà giảm mạnh đã được chứng kiến trên thị trường nội địa suốt tuần qua đã khiến khách hàng tiềm năng hoảng sợ nên một số nhà máy trong nước không thể  tính ra mức giá vừa túi tiền của người mua- họ muốn đưa ra chào giá danh nghĩa cao hơn trong khi chờ chào giá mua cố định.

Các nhà sản xuất nhỏ ở tỉnh Hà Bắc thường theo dõi thị trường trong nước rất sát sao, có thể sẽ chào giá 390 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

 “Tôi chưa bao giờ trải qua hoàn cảnh này, khi mà một tuần trôi qua tôi không nhân được yêu cầu hay chào giá mua nào trong 1 ngày”, một thương nhân ở miền đông cho biết. “Khách hàng đang sợ chứng kiến cảnh giá trong nước lao dốc và khách của tôi cho biết ông không dám mua ngay cả khi tôi có chiết khấu cho ông ấy 50 USD/tấn”.

Một người mua ở Hong Kong không nghĩ sẽ có bất cứ người nào đặt hàng với giá 400 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (với phí vận chuyển 10 USD/tấn), một mức giá mà một nhà máy tỏ ra sẵn lòng để bán. Một chào giá thấp từ một thương nhân đã xuất hiện một cách công khai ở mức 375 USD/tấn CFR nhưng không thể xác nhận mức giá này.

HRC Châu Á ngưng giảm do tâm lý chờ đợi của cả người bán và mua

Giá HRC giao ngay ở Châu Á đã ngừng giảm trong ngày thứ Sáu khi cả người bán và mua đều có thái độ chờ đợi, vì không chắc thị trường sẽ diễn biến ra sao trong thời gian tới.

Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 412-420 USD/tấn, bằng với ngày trước đó. Thép cuộn cùng loại, được định giá 420-428 USD/tấn CFR Đông Á, với mức trung bình 424 USD/tấn, giảm 18,5 USD/tấn so với tuần trước.

Hầu hết các nhà máy Trung Quốc vẫn chào giá trên 450 USD/tấn FOB cho HRC SS400, nhưng gần như không nhận được chào giá mua nào.

Một số nhà máy Trung Quốc đã tích cực chào giá  490-495 USD/tấn Myanmar cho thép cuộn cùng loại, với phí vận chuyển khoảng 30 USD/tấn. thế nhưng, những khách hàng này lại tỏ ra ít quan tâm đến mức giá cao như vậy. “Khách hàng của tôi sẽ không còn chào giá mua cao ở mức 460 USD/tấn CFR Hàn Quốc nữa”, một thương nhân ở đông bắc cho biết, và nhấn mạnh thị trường Hàn Quốc sẽ chỉ mở cửa trở lại sau 4 ngày nghỉ lễ. Benxi Iron & Steel đã từ chối bán với mức giá như vậy hôm thứ Tư.

“Các nhà máy đã gặt hái được thành quả của họ”, ông than phiền, và cho rằng các nhà máy đã tăng giá quá nhanh trong thời gian qua mà không có sự hỗ trợ của thị trường giao ngay. Đó là lý do tại sao bây giờ giá trong nước lại rớt xuống một mức thấp như vậy.

Một vài thương nhân khác dự báo giá xuất khẩu cho  HRC SS400 sẽ sớm rớt xuống dưới 400 USD/tấn FOB.

Tại Việt Nam, người mua cũng tiếp tục im lặng. Mặt khác, một số thương nhân ở đó đã cố gắng giải quyết hàng tồn càng nhanh càng tốt, và chỉ chào giá 425-435 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn loại SAE1006 2.0mm. Nhưng đổi lại họ chỉ nhận được chào giá mua ở mức thấp 400 USD/tấn CFR Việt Nam mà thôi.

 Giá HRC ở Thượng Hải giảm ngày thứ tư liên tiếp

Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của HRC tại thị trường Thượng Hải  lao dốc trong ngày thứ tư liên tiếp. Như vậy giá đã rớt tổng cộng 320 NDT/tấn (49 USD/tấn) kể từ thứ Ba xuống còn khoảng 2.800 NDT/tấn.

Một đợt giảm giá có thể xảy ra trong vài tuần tới, do lợi nhuận cao mà các nhà máy đang được hưởng.

Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 2.800-2.820 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT, mức trung bình 2.810 NDT/tấn, giảm 100 NDT/tấn so với ngày trước đó. Tính tới ngày 6/5, giá HRC đã rớt tổng cộng 440 NDT/tấn từ mức cao 20 tháng đã nhìn thấy trước đó hai tuần.

Các giao dịch cực kỳ chậm vì người mua cho rằng giá sẽ còn giảm nữa, và một số đại lý thậm chí đã hạ chào giá xuống dưới 2.800 NDT/tấn vào sáng thứ Sáu để đảm bảo có được đơn đặt hàng.

Một số đại lý đổ lỗi do thị trường giao sau suy yếu khiến giá rớt gần đây và giá có thể sẽ giảm thêm nữa trong tuần này khi giao dịch trì trệ. Tuy nhiên, một người tranh cãi rằng thị trường giao sau cho thấy nhiều dấu hiệu cải thiện vào chiều thứ Sáu và có thể hỗ trợ giá thép tăng trở lại trong tuần này.

Trên sàn Shanghai Futures Exchange hôm 6/5, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 10 vào buổi sáng chốt tại 2.412 NDT/tấn, giảm 94 NDT/tấn so với ngày trước đó, nhưng sau đó đã phục hồi lên 2.493 NDT/tấn vào cuối ngày.

“Bản thân tôi tin rằng giá thép sẽ rớt sâu hơn bởi vì nhu cầu thu hẹp và nguồn cung tăng”, một nhà phân tích ở Thượng Hải cho biết, và nói thêm rằng sản lượng thép trong tháng 4 và 5 sẽ tăng nhiều hơn.

Các nhà sản xuất thép đã tăng cường sản lượng một cách xông xáo trong năm nay vì hứa hẹn lợi nhuận tốt hơn. Bây giờ họ có thể có được mức lợi nhuận biên từ 200-500 NDT/tấn cho các sản phẩm thép dài và 300-800 NDT/tấn cho thép dẹt- các nhà máy ở tỉnh Hà Bắc cho biết lợi nhuận ròng là 4,1 tỷ NDT trong quý 1 năm nay, tăng 216% so với năm ngoái. Theo một báo cáo từ Hiệp hội Sắt thép Hà Bắc được công bố trên trang web hôm thứ Năm.

Các nhà máy lớn ở tỉnh này, cả những doanh nghiệp tiến hành bảo trì hoặc là ngưng hoạt động năm ngoái- đã khôi phục hoạt động trở lại trong năm nay.