Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 09/09/2011

Doanh số bán thép xây dựng Việt Nam cải thiện

Doanh số bán thép xây dựng của Việt Nam trong tháng 08 đạt 483.000 tấn, tăng 34,5% so với tháng 07, nhưng lại giảm 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu thống kê từ hiệp hội sắt thép trong nước (VSA). Sản xuất thép dài trong tháng 08 đạt 438.000 tấn, tăng 42,3% so với tháng trước, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo tính toán của VSA, doanh số bán thép dài trong 08 tháng đầu năm đạt 3,26 triệu tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản xuất đạt 3,32 triệu tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm rồi.

“thị trường cải thiện trong tháng 08, doanh số bán thép nhích lên do lượng bán trong tháng 06 và 07 chỉ ở mức thấp,” phó chủ tịch kiêm tổng thư ký VSA, ông Đinh Huy Tam phát biểu. Doanh số bán thép trong tháng 06 và 07 chỉ đạt 298.000 tấn và 359.000 tấn, dưới mức bình quân hàng tháng 400.000 tấn.

“trong tháng vừa qua, thị trường đã xuất hiện vài hoạt động tích trữ,” ông nói thêm. Giới thương nhân trở lại mua hàng nhiều hơn và trong tháng này giá sẽ vận động theo chiều đi lên. Theo truyền thống, hoạt động xây dựng sẽ phục hồi sau tháng 08 do các nhà phát triển đổ xô đáp ứng mục tiêu xây dựng trước cuối năm.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam gần đây đã yêu cầu các ngân hàng thương mại hạ lãi suất cho vay xuống 15-18% so với mức 20% trước đó.”đây được coi như là dấu hiệu tích cực cho thị trường, dù mức giảm này vẫn còn cao cho các doanh nghiệp,” ông Tam nhận định. Chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt vẫn đang được tiến hàng nhằm kìm hãm lạm phát gia tăng trong nước.

Các thành viên của hiệp hội sắt thép Việt Nam đã đóng góp 85% sản lượng thép dài trong nước.

 

CISA: sản lượng thép thô năm 2011 có thể đạt 710 triệu tấn

Sản lượng thép thô của Trung Quốc năm nay có thể đạt 710 triệu tấn theo ước tính mới từ hiệp hội sắt thép trong nước (CISA), tăng 50 triệu tấn so với ước tính ban đầu 660 triệu tấn.

Trong một bài báo cáo đăng trên trang web của CISA trích dẫn phát biểu của hai phó chủ tịch về sản lượng thép thô năm 2011, cụ thể là ông Wang Xiaoqi dự báo sản lượng năm nay đạt 710 triệu tấn còn ông Zhang Changfu e dè hơn chỉ với 680-700 triệu tấn, tương đương mức tăng trưởng hàng năm 8.5-13%.

Hầu hết các chuyên gia công nghiệp dường như nghiêng về phía ông Zhang, dự báo sản lượng năm nay sẽ đạt đỉnh 700 triệu tấn, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Dự báo này cũng cao hơn 660-670 triệu tấn mà các nhà phân tích thị trường đầu năm dự báo. Được biết, Trung Quốc đã sản xuất 627 triệu tấn năm 2010.

Một nhà phân tích thép Bắc Kinh cho hay, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong nửa đầu năm tăng 9,6%. Ông băn khoăn liệu các nhà máy thép trong nước có cần thiết phải cắt giảm sản xuất trong thời gian tới để đạt 680 triệu tấn, tăng 8,5% so với năm rồi.

Quan chức nhà máy cho hay, trong 06 tháng cuối năm,các nhà máy dự kiến sẽ duy trì sản lượng hàng tháng tương tự như 06 tháng đầu năm thậm chí nếu như lợi nhuận ít dần. Lợi nhuận biên của ngành thép trong nửa đầu năm bình quân chỉ đạt 3%, CISA nói.

 

Giá than cốc cứng theo xu hướng giảm

Nhu cầu than cốc cứng Trung Quốc hạn chế khiến giá than cốc trên thị trường thế giới hôm thứ 05 liên tiếp sụt giảm, tiếp nối đà gảm của tuần trước. Nhu cầu từ các thị trường nhập khẩu lớn khác cũng rất khan hiếm.

Giá Platts than cốc cứng cỡ vừa hàm lượng chất bốc thấp giảm 0,50 USD/tấn xuống còn 278 USD/tấn fob Úc. Than cốc cứng HCC cũng giảm, giá mua và giá chào chỉ đứng ở mức 270-280 USD/tấn fob.

Giới thương nhân tin rằng, mức 280 USD/tấn fob đầu tuần này đối với loại than trên khó mà đạt được do hầu như không có ai sẵn lòng mua ở mức này.

Hoạt động giao dịch hôm thứ 05 khá ít. Tồn tại Ấn Độ còn ít, thương nhân cho hay, hiện tại các nhà máy thép không muốn đặt mua, họ muốn chờ xem giá có còn giảm nữa hay không.

 

TSI: Giá tham khảo quặng 62% quanh ngưỡng 180 USD/tấn

Theo bảng giá tham khảo hàng ngày mới nhất từ TSI được công bố hôm qua cho thấy giá quặng Fe 62% dao động nhẹ so với tuần trước và hôm qua chốt tại mức 180 USD/dmt. Phí vận chuyển trung bình hàng ngày từ Australia và Brazin sang Trung Quốc tăng trở lại do nhu cầu vận chuyển trong tuần này khá mạnh.

Giá tham khảo quặng 62% Fe hôm thứ Năm giảm 0,5 USD/tấn, tức 0,3% so với tuần trước. Trước đó một ngày, giá quặng được chốt tại mức 181 USD/dmt. Xu hướng quặng giao ngay không rỏ ràng và thị trường thép cũng chưa thật sự ổn định khiến các nhà sản xuất Trung Quốc ngày càng thận trọng với các đặt mua.

Giá tham khảo quặng 58% Fe hôm qua tăng 0,6 USD/dmt, tức 0,4% so với giá tuần trước, do nguồn cung quặng chất lượng thấp bị hạn chế.

Phí vận chuyển hàng ngày từ Brazin sang Trung Quốc tăng mạnh trong tuần này nhưng sau đó giảm 6%, còn vận chuyển từ Australia cũng tăng và chốt ở mức cao hơn 8%. Phí vận chuyển hàng ngày từ bờ biển phía đông Ấn Độ không thay đổi trong tuần này, phí vận chuyển từ phía tây tăng 5% so với trước đó 01 tuần.

 

Giá phế Nam Âu giảm

Giới thương nhân cho biết giá phế Nam Âu giảm 10 EUR/tấn so với tuần trước và khả năng sẽ tiếp tục giảm vào thứ Hai tuần tới.

Giá đi xuống là do ảnh hưởng từ xu hướng giá phế toàn cấu suy yếu và nhu cầu chưa phục hồi. Mặc dù các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã quay lại thị trường và đẩy giá nhích nhẹ, nhưng triển vọng tháng 09 vẫn theo hướng đi xuống.

“Phế Italia giảm 5 EUR/tấn trong tuần cuối tháng 08 do thị trường phế Đức suy yếu,” một đại lý phế Italia cho hay. “ Giá giảm thêm 5-8 EUR/tấn vào đầu tháng 09 vì nhu cầu thấp. Các nhà sản xuất Italia đã đặt mua với số lượng khá lớn trước khi nghỉ hè.

Nhu cầu tại Tây Ban Nha vẫn duy trì yếu và giá bắt đầu giảm kể từ cuối tháng 08. Giá phế vụn tại Tây Ban Nha được dự báo sẽ về mức 305-310 EUR/tấn (428-435 USD/tấn) giao tận nơi, từ mức giá trước đó là 320-325 EUR/tấn. Phế HMS 1 giá 295 EUR/tấn, còn HMS 1&2 70:30 giá 275  EUR/tấn. E8 hiện có giá 330 EUR/tấn.

Tại Italia, HMS 1&2 80:20 hiện có giá 280-300 EUR/tấn, đã bao gồm phí vận chuyển tới nhà máy, phế HMS1 giá 310 EUR/tấn. Phế vụn E40 hiện có giá 310-340 EUR/tấn. E8 giá 345-350 EUR/tấn.

 

Dự báo sản lượng thép thô Trung Quốc trong tháng 09 tiếp tục sụt giảm

Sản lượng thép thô bình quân hàng ngày của Trung Quốc trong 11 ngày cuối tháng 08 lại giảm sau khi tăng nhẹ vào 20 ngày đầu tháng, theo số liệu thông kê từ CISA. Do nhu cầu từ người dùng cuối cùng hồi phục chậm, giá thép trở yếu, sản lượng thép thô của Trung Quốc khả năng tiếp tục giảm trong tháng 09, nhưng với tốc độ hẹp lại, theo nhận định từ các quan sát viên thị trường.

Trong 11 ngày cuối tháng 08, sản lượng thép thô của Trung Quốc theo ước tính bởi CISA đạt 20,96 triệu tấn. Bình quân 1,905 triệu tấn/ngày, trượt 2,1% so với 10 ngày thứ hai tháng 08. Sản lượng thép thô của 76 thành viên hiệp hội trong 11 ngày cuối tháng 08 đạt  1,593 triệu tấn/ngày, rớt 2.5% so với giữa tháng 08.

CISA dự báo sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 08 đạt 58,99 triệu tấn, tương đương 1,935 triệu tấn/ngày, tăng 1,2% so với con số 1,913 triệu tấn trong tháng 07.

Thương nhân dự báo sản xuất sẽ chậm so với cuối tháng 08. Nhu cầu thép dẹt sẽ khôi phục chậm trong những tháng còn lại của năm. Như vậy, các nhà máy thép dẹt khả năng sẽ cắt giảm sản xuất nỗ lực bù đắp cho chi phí nguyên vật liệu thô leo thang.

Nội trong tháng 09, việc tạm ngưng sản xuất bảo trì nhà máy của các nhà sản xuất HRC và thép tấm sẽ kéo theo tổn thất lượng HRC khoảng 600.000 tấn và thép tấm là 200.000 tấn. Tuy nhiên, giới thương nhân cho rằng sản lượng giảm sẽ hỗ trợ giá HRC và thép tấm giao ngay do nhu cầu từ các end-users ít ởi cộng với thanh khoản từ các stockists ep hẹp.

Tuy nhiên, một nhà phân tích công nghiệp cho hay đà giảm sản lượng thép thô của Trung Quốc sẽ được hạn chế do nhu cầu thép dài mạnh sẽ bù đắp tác động từ thị trường thép dẹt. Nguồn tin này tin rằng sản xuất thép dài sẽ duy trì mức cao trong vài tháng tới trong khi sản lượng thép dẹt giảm dần.

Trong khi đó, trong một bài báo cảo của CISA sản lượng thép thô của Trung Quốc trong năm 2011 dự báo sẽ đạt 680-710 triệu tấn, tăng hàng năm 8,5-13%.

 

Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đặt mua phế

Các nhà sản xuất thép Thổ nhĩ Kỳ tiếp tục đặt mua phế từ nước ngoài, đặc biệt là từ Mỹ, trong tuần này. Giới thị trường dự đoán thêm nhiều lô phế sẽ được đặt mua.

Giao dịch mới nhất từ Mỹ gồm có lô phế HMS 1&2 80:20 được đặt mua với giá 472 USD/tấn cfr, phế vụn giá 477 USD/tấn cfr. Các mức giá này cao hơn 2 USD/tấn so với hồi cuối tháng 08.

Một lô phế vụn và phế HMS 1&2 90:10 tuần này được các nhà cung cấp Mỹ bán với giá 473 USD/tấn cfr. Phế A3 từ CIS giá 466 USD/tấn cfr.

Thổ Nhĩ Kỳ tin rằng giá sẽ tăng lên cho đến cuối tháng này, có thể là nhích thêm 01-02 USD/tấn. Một số cho rằng khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ không muốn đặt mua phế rừ Châu Âu vì vấn đề chất lượng. Tuy nhiên một lô phế HMS 1&2 70:30  của Châu Âu đã được đặt mua với giá 441 USD/tấn cfr.

Các nhà cung cấp Mỹ hiện đang chờ xu hướng rỏ ràng hơn từ thị trường nội địa vì nhu cầu cũng đang cải thiện.


Giá thép tấm mỏng của Nhật suy yếu

Giá nhập khẩu thấp hơn và động thái hạ giá tháng 09 của Tokyo Steel Manufacturing khiến giá thép tấm tây gỉ và cán nóng tại thị trường Tokyo và Osaka suy yếu. Giá thép tấm mỏng cán nóng (1,6mm, 4x8 feet) tại Tokyo và Osaka hiện có giá 71.000-73.000 Yên/tấn (922-948 USD/tấn), giảm 1.000 Yên/tấn (13 USD/tấn) so với giữa tháng 08.

Giá chào mua từ khách hàng giảm sau khi Tokyo Steel hạ giá HRC và thép tấm 2.000 Yên/tấn xuống còn 68.000 Yên/tấn, áp dụng cho loại SPHC và SS400, một nhà phân phối Osaka nói. Đồng Yên tăng giá nên giá nhập khẩu rẻ hơn, điều này cũng khiến giá tại thị trường suy yếu.

Tại Tokyo, thép tấm mỏng P&O (1.6-6mm, 4x8 feet) được bán với giá 73.000-75.000 Yên/tấn và tại Osaka là 75.000-76.000 yên/tấn. Cả hai mức này thấp hơn 2.000-3.000 Yên/tấn so với hồi giữa tháng 08.

“Sự suy yếu tại thị trường là do Tokyo Steel hạ giá P&O 4.000 yên/tấn,” Tokyo Steel mạnh tay cắt giảm giá nhằm thu hút lực mua nhưng với mức này thị trường vẫn tiếp tục muốn đàm phán, do đó giá P&O khả năng sẽ còn giảm nữa cho đến khi Tokyo Steel bắt đầu nâng giá trở lại.” Thép tấm P&O 2.3-6mm SPHC giao tháng 09 của Tokyo hiện có giá 68.000 yên/tấn (883 USD/tấn), còn loại 1.6mm thì có giá 70.000 yên/tấn.

“Tokyo Steel bắt đầu nâng giá thu mua phế để chuẩn bị cho kế hoạch nâng giá thép thành phẩm tháng 10. Tuy nhiên, nhà sản xuất này cũng đẩy mạnh doanh số bán P&O nên khả năng sẽ không điều chỉnh nâng giá đối với loại thép này,” một thương nhân ở phía tây nói.

Tuần trước, Tokyo Steel đã nhận được giấy chứng nhận thép P&O đạt chuẩn công nghiệp Nhật Bản và dự định nâng sản xuất lên 20.000 tấn/tháng.

 

Giá ống hàn Trung Quốc ổn định, thị trường còn ảm đảm

 

Giá ống hàn nội địa Trung Quốc tương đối giữ ổn định tuần này bất chấp giá phôi và thép băng hẹp tại tỉnh Hà Bắc biến động nhẹ. Nguồn tin thị trường tiết lộ, giá thép ống được dự báo duy trì ổn định trong ngắn hạn do giá thành sản xuất của các nhà máy cao.

Tại Thượng Hải, giá ống hàn kháng điện ERW Q235 114x3.75mm từ tỉnh Hà Bắc hôm 08/09 hiện được chốt mức 5.150 NDT/tấn (807 USD/tấn) gồm 17% VAT, tương tự như tuần trước. Giao dịch không có bất kỳ dấu hiệu cải thiện nào, thươnh nhân sẽ chờ đợi cho tới khi xu hướng thị trường rõ ràng hơn trước khi đưa ra bất kỳ sự điều chỉnh giá.

Giá phôi tại thành phố Đường Sơn, tỉnh phía bắc hầu như ổn định so với tuần trước. Kết quả là, giá xuất xưởng ống hàn 114x3.75mm ERW từ các nhà máy lớn hôm 08/09 hiện được niêm yết mức 4.920 NDT/tấn. Một số nhà máy lớn hôm 7/09 đã nâng giá xuất xưởng 20 NDT/tấn do áp lực chi phí nguyên vật liệu thô đắt đỏ.

Một nhà máy cho biết giá của các nhà máy trong nước gần sát với chi phí sản xuất sau khi giới sản xuất thép băng hẹp tại tỉnh phía bắc Trung Quốc hôm 25/08 nâng giá tham chiếu tháng 09 lên 4.800 NDT/tấn.”dù giá thành sản xuất cao, các nhà máy vẫn thận trọng về việc điều chỉnh nâng giá trong thời điểm này do nhu cầu chưa đủ mạnh,” nhà máy này phát biểu.

 

Giá phôi phía bắc Trung Quốc biến động nhẹ

Sau biến động nhẹ hôm thứ hai đầu tuần, giá phôi tại thị trường phía bắc Trung Quốc giờ đây đã gần như ổn định. Nguồn tin công nghiệp cho hay, nhu cầu hạ nguồn dường như chưa đủ mạnh để kích thích giá tăng trên diện rộng, tuy nhiên nhu cầu cải thiện cộng với giá thành sản xuất luôn cao nếu được duy trì sẽ hỗ trợ giữ giá giao ngay cao.

Tại thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc giá xuất xưởng từ các nhà máy lớn trong nước hiện chốt mức 4.460 NDT/tấn (699 USD/tấn), gồm 17% VAT và được thanh toán bằng tiền mặt. Tuần trước giá hồi nhẹ 10 NDT/tấn, nhưng cho tới đầu tuần này giá lại trượt 20 NDT/tấn.

Thị trường đang lặp lại xu hướng của tuần rồi, với đầu tuần giá tăng và sau đó lại trượt xuống. Phôi Q235 150x150mm thành phố Đường Sơn tương tự như mức giá hồi tháng trước.

“doanh số bán thép băng hẹp và thép hình chỉ ở mức bình thường, tuy nhiên giá của hai mặt hàng này ít thay đổi do nhận được hỗ trợ từ giá phôi,” một nhà sản xuất phôi tiết lộ.

Một nhà sản xuất khác lại cho hay, các đơn đặt hàng của họ chỉ cho phép sản xuất trong một tuần. ông nói thêm nguồn cung phôi trên thị trường tương đối ít ỏi và do đó giá không có khả năng giảm thêm nữa.

Thiếu nhu cầu cùng với giá giao kỳ hạn biến động cũng có thể là nguyên nhân khiến giá thay đổi. Giá thép cây giao kỳ hạn tháng 01 tại sàn giao dịch Shanghai Futures Exchange rớt 0,46% xuống còn 4.803 NDT/tấn hôm thứ 06, sau khi tăng khoảng 0,65% của ngày trước đó.

 

Nhập khẩu HRC sang Đông Nam Á tiếp tục bị tạm ngưng

Một số nhà sản xuất Trung Quốc đang chào bán HRC SS400B (dày 3-12mm) sang Đông Nam Á với giá 700-705 USD/tấn fob. Mức giá này thấp hơn so với giá đang được chào bán của hầu hết các nhà sản xuất Trung Quốc, ở khoảng 710-720 USD/tấn fob. Giá chào thấp hơn nhằm để phản ánh niềm tin thị trường thép dẹt suy yếu. “Nhu cầu ngày càng thu hẹp,” một thương nhân Trung Quốc cho hay.

Giá chào xuất khẩu của Trung Quốc vẫn ổn định vì các nhà sản xuất nước này không muốn xuất khẩu với mức giá hiện tại. Chi phí nguyên liệu thô sẽ đẩy giá HRC lên cao hơn. “ Rất ít cơ hội để nhà sản xuất hạ giá bán vì giá quặng tiếp tục bị kiểm soát bởi các nhà cung cấp,” thương nhân này chia sẽ.

“Với mức giá thấp như hiện tại mà vẫn không có ai mua hàng,” một thương nhân khác than phiền. Điều này là do HRC Trung Quốc không có tính cạnh tranh so với HRC của các nhà sản xuất khác trong khu vực. Hàn Quốc đang chào bán SAE1006 HRC (dày 2mm) với giá 710-720 USD/tấn fob, tùy thuộc vào số lượng đặt mua.

Các chào bán HRC Hàn Quốc tại thị trường Việt Nam hiện đang ở mức 740-750 USD/tấn cfr. Một nhà sản xuất Nhật Bản đã bán 25.000 tấn HRC cán lại cho khách hàng Việt Nam với giá 735 USD/tấn cfr vào tuần trước. Các đặt mua HRC Hàn Quốc và Nhật hồi cuối tháng 08 có giá 730-735 USD/tấn cfr Việt Nam.

Các chào bán từ Đài Loan cho loại cán lại hiện đang ở mức 720-730 USD/tấn fob, nhưng cũng không có tính cạnh tranh. “Các nhà cung cấp không muốn hạ giá bán. Nhu cầu rất thấp.” một thương nhân Đài Loan cho hay. Chỉ những khách hàng thường xuyên mới đặt mua trong thời điểm hiện tại nhưng với số lượng khá ít.

 

Trung Quốc nâng giá xuất khẩu cuộn trơn sang Đông Nam Á

 

Thép cuộn tiêu chuẩn kéo sợi và tiêu chuẩn kéo lưới đường kính 6,5mm của Trung Quốc được chào vào Đông Nam Á với giá phổ biến 755-770 USD/tấn cfr, tuy nhiên giá mua chỉ 740-750 USD/tấn cfr.”không một khách hàng nào muốn mua với mức giá chào trên,” một nhà kinh doanh Singapore nói.

Thị trường cuộn trơn ở Trung Quốc hiện khá ổn định và đang hỗ trợ giá chào xuất khẩu nước này. Thương nhân cho hay, giá cuộn trơn Trung Quốc được niêm yết mức 730-750 USD/tấn, cao hơn giá thép tấm nội địa. Cước phí vận chuyển sang Đông Nam Á là 25 USD/tấn.

Theo nguồn tin giao dịch, Philippines  đặt mua lô hàng thép cuộn tiêu chuẩn kéo sợi với khối lượng 10.000 tấn từ Nga hồi giữa tháng 08 với giá 745 USD/tấn. Trong hai tuần trước, thép cuộn tiêu chuẩn kéo sợi Trung Quốc được giao dịch với  giá 750-755 USD/tấn cfr.

Cuộn trơn 5.5mm Trung Quốc được khách hàng mua với giá 770 USD/tấn cfr.”giá cả cũng như nhu cầu tương đối ổn định, do đó nguồn cung trong nước có phần hạn chế,” một nhà kinh doanh Manila nói.

 

Giá xuất khẩu HRC Ấn Độ tăng

 

Giá giao dịch HRC Ấn Độ xuất sang Châu Âu đã tăng thêm 15-20 EUR/tấn kể từ giữa tháng 08 do khách hàng quay lại thị trường sau kỳ nghỉ mùa hè.

Tuy nhiên, các nhà cung cấp hạn chế chào bán vì giá giao dịch hiện tại có thể khiến họ mất khoảng 15-20 USD/tấn nếu như chính phủ Ấn Độ thông qua kế hoạch xóa bỏ chính sách khuyến khích xuất khẩu vào ngày 30/09.

Các nhà cung cấp Ấn Độ hiện đang bán HRC S235 EN tiêu chuẩn thương phẩm (dày 2mm hoặc lớn hơn) với giá 525-530 EUR/tấn cfr Antwerp. Hôm 07/10, giá giao ngay HRC Platts được chốt tại mức 520-525 EUR/tấn cfr Antwerp.

Các đơn đặt mua từ Châu Âu đang tăng lên vì tồn xuống thấp, do đó các hợp đồng có thể được chốt tại mức 535 EUR/tấn cfr, một số nhà xuất khẩu Ấn Độ cho hay. Lực mua từ Trung Đông cũng tăng đáng kể sau khi lễ chay kết thúc vào tuần trước.

Một số nhà xuất khẩu tỏ ra thận trọng với các hợp đồng tháng 10, đặc biết là đối với những đơn đặt mua số lượng lớn khi New Delhi đang dự định xóa bỏ chương trình khuyến khích xuất khẩu (DEPB) sau ngày 30/09. Nếu như chương trình này chấm dứt thì các lô hàng xuất khẩu sau đó sẽ không được hưởng lợi từ chính sách này, ước tính khoảng 17-18 USD/tấn, tùy thuộc vào giá HRC xuất khẩu.

Tuy nhiên, một số thương nhân cho rằng DEPB vẫn chưa có thông tin chính xác nên các nhà xuất khẩu hiện tiếp tục chào bán và kỳ vọng rằng giá sẽ tăng lên trong vài tuần tới.