"Tôi không thấy lý do tại sao họ tăng giá. Không có lý do gì cho sự gia tăng này: thị trường cũng giống như cách đây một tháng," một thương nhân ghi nhận.
Không có đơn đặt hàng HRC nguồn gốc CIS nào diễn ra ngay cả với giá hơn 495usd/tấn FOB Biển Đen, theo một số thương nhân.
"Giá của Trung Quốc đang giảm vì vậy các thị trường Bắc Phi sẽ không chấp nhận mức giá tương tự từ CIS cho đến khi Trung Quốc ổn định hoặc phục hồi. Ngày hôm nay, người mua ở Ai Cập có thể trả tối đa 500usd/tấn CFR cho HRC của CIS, vì vậy 480usd/tấn FOB thì thấp hơn 10usd so với những gì bạn có thể nhận được từ một nhà máy," một nguồn tin khác nói.
Nhà kinh doanh thứ hai cho biết các nhà máy từ chối chào mua 480usd/tấn FOB cho sản xuất tháng 4 của HRC, trong khi đó rất khó khăn, nếu có thể, để thuyết phục người mua chấp nhận mức 490usd/tấn FOB. "Người mua có thể quay sang Ấn Độ. Hôm nay họ có thể tìm kiếm nguồn HRC ở đó với giá 485usd/tấn FOB, chỉ cao hơn 7-15usd/tấn so với cùng loại từ Biển Đen ", nhà kinh doanh nói.
Vào ngày 8 tháng 3, Platts giá HRC hàng ngày của CIS xuống còn 485-490usd/tấn FOB Biển Đen, giảm 2,5usd/tấn trong ngày với giá CRC ở mức 550-555usd/tấn FOB, ổn định.
Nhà sản xuất thép này cho biết họ có quyền báo giá lại bấ kỳ chào giá nào không được xác nhận.
Giá cả tăng lên theo sau khi giá phế trong nước tăng vọt. Hầu hết các nhà máy trả 25-40usd/lt cho phế vụn trong tháng ba so với tháng 2, trong khi giá phế prime tăng 50-60usd/lt.
Các nguồn tin bên mua trong tuần này đã dự đoán mức tăng giá được chứng minh bởi chi phí phế tăng lên của các nhà máy. Một số nguồn tin cho hay các nhà máy đã đưa ra mức giá cao hơn mức giá hiện tại của thép cuộn cán nóng và cho thấy các đơn đặt hàng mới sẽ nằm trong khoảng 650 -670usd/st.
Platts định giá HRC ở mức 635-640usd/st xuất xưởng Midwest (Indiana) vào thứ Tư, tăng từ mức 620-640usd/st hôm thứ Ba. Định giá thép cuộn cán nguội vẫn giữ ở mức 830-850usd/tấn.
Trong một thông báo khác, Nucor cho biết sẽ tăng phụ phí mạ cho thép giao kể từ tuần kết thúc ngày 06/05. Mức tăng của Nucor diễn ra sau động thái tương tự của các nhà máy khác trong hai tuần gần đây để điều chỉnh tính chi phí kẽm cao hơn. US Steel, California Steel Industries và Steel Dynamics Inc. công bố phụ phí mạ cao hơn sẽ có hiệu lực với các lô hàng tháng 4.
Thị trường vẫn bế tắc với các nhà máy chính của Tây Âu tiếp tục đẩy giá 580-600 euro/tấn cho hàng hàng Q2. Thời gian giao hàng được nghe nói đến 10-12 tuần đối với một số nhà sản xuất.
Thu mua dự kiến sẽ tăng trở lại vào cuối tháng này và nguồn tin cho thấy các nhà máy có khả năng sẽ thúc đẩy một đợt tăng nữa, và có thể đạt mức tăng thêm 10 euro/tấn.
Các nguồn tin ở Benelux và Đức cho biết mức giao dịch có xu hướng khoảng 575 euro/tấn.
Giá nhập khẩu đã được nghe nói ở mức 530-540 euro/tấn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ với sự biến động liên quan đến ngoại hối.
Các chào giá được báo cáo bởi các nguồn tin dao động từ 450usd/tấn đến 470usd/tấn, FOB Marmara/Izmir. Một nguồn tin cho biết đạt được giá 450usd/tấn trong kinh doanh đến châu Á nhưng đây là mức cao nhất cho đến nay đề cập trong một thỏa thuận. Một thương nhân trích dẫn một hợp đồng với giá 445usd/tấn FOB Marmara, cũng cho một điểm đến ở Viễn Đông.
Tại Mỹ thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ được chào bán ở mức 510usd/tấn CFR Houston/New Orleans và vì vậy trong thời gian đó không có bất kỳ giao dịch nào được chốt. Một thương nhân lưu ý rằng Mỹ vẫn còn rất nhiều hàng tồn kho để tiêu thụ. "Có những giá chào được đưa ra nhưng chưa có người chấp nhận," một thương nhân hoạt động tại thị trường Mỹ bình luận.
"Xu hướng giá phôi thanh và thép cây tăng lên với sự hỗ trợ của việc đặt mua phế gần đây nhất. Điều này có thể mất thời gian để hấp thụ mức tăng giá thép cây do nhu cầu thấp ", một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ dự đoán. Người mua ở các thị trường châu Phi và vùng Vịnh không cam kết giá chào bán thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này được cho là do nhu cầu yếu hoặc các khó khăn trong việc đảm bảo thư tín dụng.
Một số nhà sản xuất thép tích hợp tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục lựa chọn giá tăng phân phối xuất khẩu phôi thanh tại mức chi phí của thép cây do chênh lệch giá giữa hai sản phẩm vẫn còn bị siết chặt.
Với sự tăng lên về giá giao dịch, Platts đã nâng mức giá hàng ngày lên 445usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ (khoảng 440-450usd) vào thứ Tư, tăng 7,5usd/tấn trong ngày.
Ở Đức và Hà Lan, các nguồn tin báo cáo thị trường ở mức 220 euor/tấn, trong khi thị trường Pháp và Bỉ đã được nâng lên thành mức 200 euro/tấn.
Người mua cho biết các nhà cung cấp của họ nói rằng việc thị trường nguyên liệu thô mạnh lên là lý do để giá tăng. Ngoài ra, nhu cầu được báo cáo là cải thiện khi thời tiết chuyển từ mùa đông khắc nghiệt sang mùa xuân.
Các nguồn tin trong tuần này dự đoán rằng giá phế sẽ tăng lên 20-30 euro/tấn sau những phát triển gần đây nhất của phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Tính đến thứ Tư 8 tháng 3, nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ cho HMS 80/20 đã tăng 13,50usd so với giá tuần trước là 297,50usd/tấn CFR.
"Phế được cho là tăng lên trong tháng này, nhưng nhìn vào giá ở Mỹ, nó có thể tăng cao hơn ở châu Âu", một người mua thép cây và thép hình của Benelux nói. Mức tăng 40usd/lt đã được ghi nhận ở phế obselete ở Mỹ và 60 usd/lt đối với prime trong suốt tuần mua tháng này.
Các nhà máy ở châu Âu đã cho thấy những ý định thúc đẩy thị trường thép hình một khoảng tương tự như thép cây trong tuần này, nhưng các nguồn tin cho biết đây vẫn chưa được thể hiện trong các giao dịch. Giá vẫn ở mức 510-520 euro/tấn, trong khi thanh thương phẩm vẫn ở mức 50-65 euro/tấn.
Hôm thứ Tư, Platts tăng giá cây hàng ngày lên 460-475 euro/tấn, tăng 1,50 euro/tấn từ thứ ba.
Giá bán mới của Kardemir cho thanh tròn trơn đạt mức giá 1.670 TRY tấn với mức tăng này, trong khi giá thép cây là 1.653 TRY (447usd)/tấn xuất xưởng thứ tư, tăng 78 TRY (21usd)/tấn so với giá niêm yết trước đây ban hành vào ngày 15 tháng 2.
Công ty cũng tăng giá cuộn trơn vào thứ Tư, với giá niêm yết cho cuo65nt rơn 5.5mm tăng cùng một khoảng lên mức 1.760 TRY (476usd)/tấn xuất xưởng, trong khi giá cuộn trơn 6-32mm đã tăng lên đến 1.730-1.745 TRY (468-472usd)/tấn xuất xưởng, đều tăng 65 TRY (18usd) /tấn.
Kardemir cũng tái nở bán thép hình và thép góc góc với giá cao hơn. Giá tính bằng lira cho tất cả các mặt hàng thép hình tăng 25 TRY (7usd)/tấn so với giá niêm yết trước đó. Công ty đã nâng giá niêm yết của IPE-IPN-UPNs 160-300mm lên 1.790 TRY(484usd)/tấn. Giá của IPE-IPN-UPN 320-550mm cũng tăng lên 1.860 TRY (502usd)/tấn, trong khi giá của HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm đã tăng lên tương đương với 1.805 TRY (486usd)/tấn, 1.880 TRY (506usd)/tấn và 1.955 TRY (526usd)/tấn.
Công ty cũng tăng giá thép góc bằng: 150x15mm lên mức 1.915-1.965TRY (516-530usd)/tấn, cho 180x18mm lên mức 2.045 TRY (551usd)/tấn và cho 200x16-24mm lên mức 2.045-2.135 TRY (551-575usd)/tấn. Giá niêm yết của Kardemir không bao gồm VAT 18%.
Tuy nhiên, công ty đã không mở bán phôi thanh cho thị trường nội địa. Thị trường dự kiến nhà máy này sẽ bắt đầu bán phôi thanh với giá cao hơn trong những ngày tới, phù hợp với giá phế nhập khẩu và phôi thanh nhập khẩu cao hơn, đạt khoảng 300usd/tấn CFR và 420-425usd/tấn CFR trong những ngày gần đây.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 445usd/tấn (khoảng 440-450usd) FOB Thổ Nhĩ Kỳ, tăng 7,5usd/tấn từ mức giá hôm thứ Ba.
Một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho biết đã bán thép cây cho vùng Viễn Đông với giá 450usd/tấn FOB khối lượng thực tế. Một thương nhân đã xác nhận một hợp đồng với Far East ở mức 445usd tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một nhà kinh doanh khác ghi nhận rằng giá chào thấp nhất đứng ở mức 430usd/tấn FOB với đơn đặt hàng chốt khoảng 445usd/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Chào giá cho thị trường Mỹ là 510usd/tấn CFR Houston trọng lượng lý thuyết, và không có đặt mua mới.
Công ty này đã nâng giá gang thỏi của mình 50 TRY (28usd/tấn) lên mức 1.340-1.410 TRY (360-378usd)/tấn hôm thứ Tư, trong khi giá gang thỏi luyện thép tăng một khoảng tương tự lên mức 1.220-1.325 TRY (328-355usd)/tấn.
Theo số liệu mới nhất từ Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ (TUIK), nhập khẩu gang thỏi vào Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh 40% so với cùng kỳ năm ngoái lê mức 64.377 tấn trong tháng 1, bất chấp sự gia tăng đáng kể sản lượng thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng đó.
Sản lượng thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ tăng 12,8% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,93 triệu tấn. Thép thô được các nhà máy EAF sản xuất đã tăng 13,9% so với cùng kỳ năm ngoái lên khoảng 1,92 triệu tấn trong tháng 1, trong khi sản lượng thông qua các lò chuyển đổi oxy tăng đáng kể, tăng 10,6% lên mức 1,01 triệu tấn.
Nga đã trở thành nhà cung cấp gang thỏi chính của Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 1, cung cấp 55.878 tấn, tăng 38% so với năm ngoái, trong khi nhập khẩu gang thỏi của Thổ Nhĩ Kỳ từ Ukraine giảm mạnh trong tháng đó chỉ còn 1.000 tấn, so với 65.932 tấn nhập khẩu trong cùng tháng của năm trước, dữ liệu cho thấy.
Các vấn đề cung cấp có thể liên quan đến những sự gián đoạn đang diễn ra của một số doanh nghiệp ở Ukraine. Một thương nhân cho biết, nhà cung cấp phôi thép ISD DMKD thường xuyên đã giảm sản lượng gang thỏi hàng ngày 3.000 tấn từ 8.000 tấn do sự cạn kiệt nguồn nguyên liệu thô và không có khả năng bổ sung các kho dự trữ do tuyến đường sắt quan trọng bị được sử dụng cho vận chuyển than cốc .
Các nhà sản xuất khác ở Ukraina, bao gồm Metinvest, cũng được cho là đang sản xuất ở mức giảm. Nhà sản xuất phôi thanh lớn nhất của Ukraina, ArcelorMittal Kriviy Rih, đã tăng mức chào bán lên 415usd/tấn FOB từ 410usd/tấn FOB Biển Đen, một thương nhân cho biết. Một nhà máy của Nga, Novorosmetall, đứng đầu danh sách với giá chào đã lên tới 420usd/tấn FOB Novorossisk.
Một thương nhân người Ai cập cho biết ông đã chứng kiến sự bứt phá hồi tuần trước khi phôi thanh CIS được chào bán với giá 420usd/tấn CFR Damietta. Tuy nhiên, trong tuần này, ông dự đoán giá chào bán sẽ cao hơn tác động của sự sụt giảm mạnh của đồng bảng Ai Cập so với đồng đôla Mỹ, điều này khiến cho việc đặt mua phôi thanh mới trở nên không khả quan. Một thương nhân khác tin rằng 420usd/tấn CFR Ai Cập sẽ là một mức giá rất hấp dẫn vào lúc này.
Một nhà lại của Thổ Nhĩ Kỳ nghe thấy một thương vụ phôi thanh CIS với giá 415usd/tấn CFR Marmara, tương đương 402-405usd/tấn FOB Biển Đen. "Đó là một mức giá tốt cho nguyên liệu chính. Không tệ trong ngày hôm nay, "một nhà cán lại khác ước tính. Hợp đồng này được cho là đã chốt trước khi chào hàng cao hơn được công bố.
Hôm thứ Tư, Platts định giá giá phôi thanh hàng ngày ở mức 405usd/tấn FOB Biển Đen, ổn định trong ngày.
Giá yêu cầu của các nhà máy CIS tăng lên 415-420usd/tấn FOB Biển Đen, một số nguồn tin từ cả Nga và Ukraine. Giá giao dịch được báo cáo thấp hơn. Một nhà cán lại của Thổ Nhĩ Kỳ báo cáo một khoản đặt mua là 415usd/tấn CFR Marmara, tương đương 402-405usd/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Ai Cập trích dẫn những chào bán thấp hơn từ CIS, với giá 420usd/tấn CFR Ai Cập, tương đương với 400-403usd/tấn FOB Biển Đen. Điều này phần lớn là do các nguồn tin thương mại do giá chào bán từ sản lượng sản xuất mới của các nhà máy cao hơn. Một thương nhân cũng nghe nói giá bán ở mức 410usd/tấn và 415usd/tấn FOB Biển Đen trong khi các nguồn khác cho rằng giá là quá cao để được chấp nhận.
Platts duy trì định giá ổn định ở mức 405usd/tấn FOB do giá giao dịch báo cáo trên thị trường tiếp tục nằm trong khoảng 400-410usd/tấn FOB mặc dù giá chào bán đã tăng lên trong thời gian gần đây.
SDI bỏ chiết khấu cho thép hình
Steel Dynamics Inc sẽ bỏ chiết khấu cho các sản phẩm thép hình, có hiệu lực trong tuần này, công ty cho biết.
Có Hiệu lực với các đơn đặt hàng mới ngày 6/3, Bộ phận Thép Hình và Đường Ray của Steel Dynamics sẽ loại bỏ hoặc cắt giảm chiết khấu khoảng 35usd/st, công ty cho biết, ghi nhận rằng chi phí đầu vào đang tăng lên.
Nucor hôm thứ 6 đã đưa ra một thông báo tương tự, nói rằng nó sẽ giảm và/hoặc loại bỏ chiết khấu khoảng 35usd/st, có hiệu lực từ 3 tháng 3. Gerdau thông báo sẽ loại bỏ chiết khấu với thép dầm cuối tháng Giêng khi công ty rút một khoản 40usd/st thời điểm công ty rút lại một thông báo tăng giá trước đó với thép dầm.
Các nhà sản xuất thép dầm trong nước của Mỹ đã tăng giá niêm yết 35usd/tấn vào cuối tháng 12 năm ngoái, đưa giá niêm yết hiện tại ở mức 715usd/st (35,75usd/cwt).
Chênh lệch giá phế prime so với phế vụn ở mức cao 5 năm
Chênh lệch giữa giá phế prime so với phế vụn tại thị trường Mỹ đã tăng lên mức cao trong 5 năm qua trong tuần mua tháng 3. Chênh lệch tăng thấp nhất là 40usd/lt ở Detroit nhưng cao nhất là 70usd/lt ở Ohio. Chênh lệch giữa định giá phế busheling số 01 và định giá phế vụn, đã giao nhà máy Trung Tây, là 62,50usd/lt trong tuần này, mức cao nhất kể từ tháng 12 năm 2011.
Một nhà cung cấp Ohio nói: "Tại Ohio, chúng tôi có sự chênh lệch về giá busheling và phế vụn là 70usd một tấn. "Hoặc là quá mắc, hoặc là quá thấp."
Sức mạnh của giá prime không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu mạnh mẽ của nhà máy thép dẹt EAF mà còn do sự thiếu hụt nguồn cung gang thỏi do sự sụt giảm sản xuất của Braxin và sự gián đoạn liên tục tại khu vực CIS do xung đột giữa Ukraine và Nga. Sự gián đoạn từ 4 đến 5 tuần tại cơ sở DRI của Nucor cũng góp phần làm khan hiếm prime.
Một nhà cung cấp phế ở Midwest cho biết: "Chúng tôi vẫn tiếp tục nói rằng hoặc nhu cầu busheling cần phải giảm xuống điều mà chúng tôi không nhìn thấy hoặc phế vụn phải tăng lên.”
Giá phế vụn đã chốt khoảng 320-325usd/tấn đã giao nhà máy ở Midwest và giá phế prime được giao dịch ở mức 360-410usd/lt.
Một nguồn tin khác cho biết: "Có rất nhiều nguồn cung phế obsolete. Đang là mùa xuân, vì vậy chúng ta sẽ thấy liệu các nhà máy có thể thoát khỏi mức giá 400usd của prime và tập trung vào nguo62nncung phế vụn dồi dài trong tháng Tư. "
Hầu hết các nguồn thông tin thị trường đều đồng ý rằng mức chênh lệch hiện nay đang ở mức mà nó cần phải phù hợp. Nhưng câu hỏi vẫn là: khi nào? Một nhà cung cấp phế liệu khác cho biết "Prime đang quá cao, trừ khi xuất khẩu tăng lên.”
Hôm thứ ba, một lô phế bulk của Mỹ bán cho Thổ Nhĩ Kỳ đã được ký kết ở mức 330usd/tấn CFR HMS 80:20, tăng 20usd/tấn giá bán trước đó hôm 15/2. Phần lớn xuất khẩu phế của Mỹ là obsolete nhưng sức mạnh xuất khẩu có thể có một tác động gián tiếp lên prime bằng cách giới hạn nguồn cung obsolete ven biển đến các nhà máy trong nước nếu họ cố gắng bù đắp nhu cầu prime.
Một nhà môi giới cho biết: "Các nhà máy đang bắt đầu thảo luận tiêu thụ nhiều phế vụn hơn so phế prime giá cao hơn . "Nó có thể ảnh hưởng đến động lực thị trường."
Nhiều giá bán prime ở mức trên 390usd/lt là những giao dịch khởi đồng ngoài khu vực. Người môi giới cho rằng thay vì giá phế prime điều chỉnh khắp nơi, các nhà máy có thể sẽ không tiếp cận được với prime bên ngoài khu vực của họ và duy trì giá phế prime địa phương ở mức thấp nhất trong phạm vi 360-410usd/lt.
Ngoài ra còn có những lực cản để hạn chế giá phế prime. Các nguồn tin thị trường cho thấy nhiều tàu chở phế prime đã được đặt mua bởi một nhà máy của Mỹ từ Châu Âu. Hơn nữa, cơ sở DRI Louisiana của Nucor dự kiến sẽ tái sản xuất trong tuần này. Các nhà cung cấp gang thỏi từ Ấn Độ cũng bắt đầu chào hàng vào Mỹ, một điều mà một thương nhân ghi nhận "đã không xảy ra trong nhiều năm."
Một nhà cung cấp khác của Đông Bắc cho biết: "Với DRI trở lại, prime và phế vụn sẽ xích lại gần hơn mặc dù vẫn không có nhiều prime trên thị trường. "Nhưng tất cả phụ thuộc vào xuất khẩu. Rất khóa để xuấ khẩu suy yếu, nhưng nó có thể mạnh hơn bao nhiêu? "
NSSC nâng giá thép tấm và CRC không gỉ
Nippon Steel & Sumikin Stainless sẽ nâng giá thép cuộn cán nguội austenit và thép tấm thêm 10.000 Yên/tấn (88 USD/tấn) và 15.000 Yên/tấn cho CRC ferritic cho các hợp đồng tháng 3.
Động thái này theo sau một vài nhà máy khác nâng giá kể từ mùa hè năm ngoái và tổng mức tăng cho CRC và tấm austenit lên 60.000 Yên/tấn và 65.000 Yên/tấn cho CRC ferritic.
NSSC không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện tại cho CRS loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 320.000 Yên/tấn (2.812 USD/tấn) và loại CRS 430 là 260.000 Yên/tấn (2.285 USD/tấn), cả hai đều không thay đổi so với cách đây một tháng.
Đại diện NSSC không có bình luận gì, nhưng công ty giải thích rằng giá nickel bình quân trong 2 tháng đầu năm đã giảm 0,09 USD/lb so với giá tháng 12 đến tháng 1 chạm mốc 4,68 USD/lb. Đồng thời, tỷ giá hối đoái giữa đồng yên và đô la Mỹ trong tháng 1 và tháng 2 đã chứng kiến sự mạnh lên của đồng Yên tới mức 114,94 Yên đổi 1 đô la từ 116,38 Yên đổi 1 đô la trong tháng 12 đến tháng 1.
Nhưng mặt khác, giá ferrochrome trong tháng 1 và tháng 2 đã tăng lên 173 cent/lb so với mức 145,5 cent/lb trước đó, và với thành phần phụ trợ hợp kim của NSSC, điều này buộc nhà máy này phải nâng giá CRC và thép tấm austenitic lên 10.000 Yên/tấn. Việc điều chỉnh phụ phí hợp kim tương tự khiến nhà máy tăng giá CRC ferritic lên 15.000 Yên/tấn.
NSSC cho biết nhu cầu CRC không gỉ trong nước đã trở nên vững chắc và các nhà máy CR tại Hikari ở phía tây Nhật Bản và tại Kashima gần Tokyo có ý định tiếp tục hoạt động hết công suất.
Một nhà phân phối thép không gỉ có trụ sở tại Tokyo cho biết các nhà sản xuất đang tiếp tục bận rộn với việc cung cấp cho các khách hàng có hợp đồng dài hạn. Kết quả là khoản phân bổ cho việc bán giao ngay đã giảm xuống. Ông nói: "Nhu cầu trên thị trường giao ngay cũng đang gia tăng và tồn kho đang trở nên ít hơn vì vậy giá cao hơn sẽ sớm được khách hàng chấp nhận".
Giá cuộn trơn Châu Á giảm do thị trường Trung Quốc suy yếu
Giá giao dịch cuộn trơn tại khu vực Châu Á giảm trong tuần từ ngày 2-8/3 đánh dấu sự sụt giảm đầu tiên sau khi giá tăng lên trong ba tuần liên tiếp. Các nhà máy xuất khẩu và thương nhân Trung Quốc đều cắt giảm chào giá đồng bộ với thị trường trong nước suy yếu. Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm ở mức 472-474 USD/tấn FOB, giảm 12 USD/tấn so với tuần trước.
Tại Thượng Hải hôm thứ Tư, giá giao ngay cho cuộn trơn Q195 6.5mm ở mức 3.530-3.550 NDT/tấn (512-515 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT, giảm 95 NDT/tấn so với tuần trước.
Các nhà xuất khẩu chính ở miền bắc và miền đông Trung Quốc đang chào giá ở mức 490-495 USD/tấn FOB cho thép dây hàm lượng cacbon thấp SAE1008 6.5mm, đánh dấu mức giảm 5-15 USD/tấn so với tuần trướcđó. Những nhà máy này đã bắt đầu cắt giảm chào giá từ đầu tuần này, cùng với sự điều chỉnh trên thị trường thép Trung Quốc.
Các nhà kinh doanh Trung Quốc đang chào bán ở mức 480-485 USD/tấn FOB, so với 490-495 USD/tấn FOB được nhìn thấy trong tuần trước. Đồng thời, người mua ở thị trường nước ngoài đã nhanh chóng hạ mức giá lý tưởng.
Chào giá mua từ Philippines được nghe nói ở mức 480-485 USD/tấn CFR Manila (tương đương khoảng 465-470 USD/tấn FOB), so với mức giá cao 495 USD/tấn vào cuối tuần trước. Người mua từ Việt Nam chủ yếu đang quan sát, với ít giá hỏi mua được nghe nói hôm thứ Tư.
Hebei's Jiujiang Wire Co đã giảm 90 NDT/tấn xuống 3.390 NDT/tấn, xuất xưởng bao gồm VAT hôm thứ Hai. Một số nguồn tin thị trường cho biết, mức này tương đương với khoảng 487 USD/tấn FOB cho chào giá xuất khẩu. Nhà máy này thông báo giá hai lần một tuần, vào Thứ Hai và Thứ Năm.
Giá thép cây ổn định ở châu Á do người mua kỳ kèo giá thấp hơn
Hôm thứ Tư, thị trường thép cây tại châu Á vẫn ổn định trong ngày thứ hai liên tiếp, vì người mua và người bán vẫn ở bên lề. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 444-446 USD/tấn FOB Trung Quốc, không thay đổi so với ngày trước đó.
Hầu hết các nhà máy Trung Quốc vẫn giữ giá không thay đổi ở mức 470 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, phù hợp với thị trường trong nước và thị trường kỳ hạn ổn định. Hai nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã chào giá ở mức 470 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết hôm thứ ba, tương đương với 485 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%. Trong khi đó, một nhà máy khác trong khu vực đã báo giá 475-480 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (490-495 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Chào giá thép cây xuất xứ Trung Quốc tới Hong Kong trên 470 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 461 USD/tấn FOB với phí vận chuyển là 9 USD/tấn. Tuy nhiên, giá lý tưởng của người mua trong khu vực vẫn còn dưới 450 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (441 USD/tấn FOB). Một nhà tích trữ cho biết họ sẽ chỉ mua với giá 430-440 USD/tấn CFR (421-431 USD/tấn FOB) và sẽ chỉ mua các lô hàng giao tháng 5 khi công ty đã hoàn thành các yêu cầu tháng 3 và tháng 4. Một nhà tích trữ khác cho biết có khả năng sẽ mua nếu giá giảm xuống 420-430 USD/tấn CFR (411-420 USD/tấn FOB).
Một nhà tích trữ tại Singapore cho biết, các thương nhân Trung Quốc đã giữ chào giá ổn định ở mức 450-460 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 448-459 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.
Tại thị trường bán lẻ ở Bắc Kinh, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được định giá 3.805-3.855 NDT/tấn (552-560 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, bao gồm 17% VAT, không thay đổi so với thứ Ba.
Giá xuất khẩu HRC của Trung Quốc giảm khi lượng mua ít, giá chào thấp hơn
Hoạt động thu mua thưa thớt và giá cả trong nước giảm khiến các nhà sản xuất thép Trung Quốc phải cắt giảm giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng vào hôm nay. Platts định giá SS400 HRC dày 3.0mm ở mức 504 USD/tấn FOB Trung Quốc, giảm 4.5 USD/tấn so với ngày trước đó. Cùng ngày, tại thị trường đại lý Thượng Hải, HRC Q235 5.5mm được định giá ở mức 3.650-3.660 NDT/tấn (528-530 USD/tấn) xuất xưởng thuế VAT 17%, giảm 20 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đã cắt giảm giá chào HRC SS400 xuống còn 505 USD/tấn FOB Trung Quốc đến các khu vực không bao gồm Hàn Quốc, một số thương nhân cho biết. Nhà máy này đã khăng khăng giữ mức giá 510 USD/tấn FOB Trung Quốc cho khách hàng Hàn Quốc. "Chúng tôi sẽ phải tuân theo và giảm giá nếu đơn đặt hàng vẫn còn ít", một nhà máy ở miền đông Trung Quốc thừa nhận.
Các nhà máy Trung Quốc khác vẫn chào giá cao tại 507-520 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Tư cho thép cuộn cùng loại nhưng sẵn sàng đàm phán giá thấp hơn nhiều so với chào giá mua, các nhà máy và các thương nhân cho biết.
Mặt khác, người mua đang có thái độ thận trọng trước khi đặt hàng. Họ tin rằng giá xuất khẩu của Trung Quốc ắt hẳn sẽ giảm thêm trong vài ngày tới do nhu cầu yếu và giá suy yếu hơn ở Trung Quốc, một thương nhân Hàn Quốc cho biết.
Một giao dịch cho HRC SS400 được sản xuất bởi một nhà máy lớn của Trung Quốc đã được nghe chốt với giá 505 USD/tấn FOB hôm thứ Tư cho lô hàng giao tháng 5. Tuy nhiên, hầu hết các nguồn tin do Platts liên hệ đều nói rằng do giá đang rớt nên thật khó để tin một giao dịch có thể được chốt ở mức đó.
Một thương nhân lớn của Trung Quốc có trụ sở tại Việt Nam không nhận được phản hồi khi chào giá 515 USD/tấn CFR Việt Nam (với giả định phí vận chuyển 8 USD/tấn) cho HRC SS400. Đối với cuộn dây SAE, Ấn Độ vẫn duy trì ở mức 510 USD/tấn CFR Việt Nam, thấp hơn nhiều so với các nhà cung cấp Trung Quốc với giá 530-540 USD/tấn CFR Việt Nam. Các nhà máy Ấn Độ cũng đã bước vào thị trường Hàn Quốc với giá chào 530-540 USD/tấn CFR, một thương nhân Hàn Quốc cho hay.