Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 09/8/2017

Các nhà máy thép cuộn CIS hết hàng tháng 9, thị trường đi vào im ắng

Nguồn cung HRC thiếu hụt ở CIS do các nhà máy đã bán hết thép tháng 9. Điều này thúc đẩy giá tăng mạnh mặc dù vẫn đang trong mùa lễ.
Có rất ít nhà máy CIS chào bán thép cuộn cán nóng nên họ tăng giá chào bán. Tuy nhiên, giá này có vẻ cao hơn so với mức khách hàng có thể trả và không được xem là giá thị trường.

Do đó, MMK, nhà máy duy nhất Nga vẫn còn thép tháng 9 để bán đã chào giá 540 USD/tấn FOB Biển Đen cho HRC và 590 USD/tấn cho CRC.Một khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ nghe nói đã chào mua ở mức 545 USD/tấn CIF (525 USD/tấn FOB Biển Đen) nhưng bị từ chối.

Giá tấm  CIS hiện được chào bán tại mức 520 USD/tấn FOB Biển Đen với giá mua tầm 505-515 USD/tấn FOB.

Một thương nhân Châu Âu không chắc liệu các nhà máy có bán được ở mức trên không. Chẳng hạn như thị trường Bắc Phi không chấp nhận  mức này. Giá họ muốn mua tầm 510-515 USD/tấn FOB.

Giá HRC đang được chào bán ở mức quá cao so với thực tế tầm 25 USD/tấn cho khối lượng thép còn lại của tháng 9 dù đang trong lễ nghỉ hè và thị trường sẽ còn chậm chạp trong 1-2 tuần tới. Hầu hết các nhà máy đã bán hết thép tháng 9 và sẽ trở lại trong vòng 7-10 ngày tới.

Platts tăng giá HRC CIS thêm 2.50 USD/tấn, đạt mức 505-515 USD/tấn FOB Biển Đen, trong khi CRC CIS tăng 5 USD/tấn lên 555-560 USD/tấn FOB Biển Đen.

Theo một thương nhân Châu Á, chào giá từ Nga có sẵn ở mức 480 USD/tấn FOB.

Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ

Platts tăng giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ thêm 5 USD/tấn, đạt mức 510 USD/tấn FOB vào hôm qua nhờ giá nội địa tăng hỗ trợ giá xuất khẩu.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết mức giá 505 USD/tấn phù hợp cho phôi thanh hơn thép cây lúc này, với giá chào thấp nhất là 520 USD/tấn FOB. Một thương nhân khác cho biết giá trong nước tương đương ít nhất 520 USD/tấn FOB nên giá xuất khẩu phải tầm 515 USD/tấn FOB mới thu hút các nhà máy chào bán.

Giá chào bán tăng nhờ thị trường trong nước tăng trưởng. Một nhà máy cho biết mức giá là 535 USD/tấn FOB. Một thương nhân xác nhận giá này phù hợp cho giá thép ở vùng Istanbul.

Định giá HRC EU

Platts tăng giá HRC EU thêm 10.50 Euro/tấn vào hôm qua, đạt mức 520 Euro/tấn (610.32 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr.

Các nhà máy Tây Âu đang tăng giá lên 530 Euro/tấn xuất xưởng trong khi các giao dịch chưa đạt mức này.

Một thương nhân ở Nam Âu cho biết giá giao dịch có thể đạt mức 500 Euro/tấn xuất xưởng vào tháng 9 nhưng giá hiện tại chỉ ở mức 480 Euro/tấn.

Phần lớn thị trường vẫn im ắng trong hè nhưng nhờ không có nhiều hàng nhập khẩu nên không có áp lực giá. Chào giá Ấn Độ trước đó là 590-600 USD/tấn CIF nhưng hiện tại không còn nữa.

Giá thép cây Đài Loan tăng nhờ chi phí đầu vào tăng

Chi phí đầu vào tăng đã thúc đẩy các nhà máy thép cây Đài Loan gồm Feng Hsin Iron & Steel tăng ít nhất 400 Đài tệ/tấn (13 USD/tấn) cho các đơn hàng tuần 7-11/8.

Feng Hsin đã tăng giá thép cây cỡ chuẩn 13mm thêm 400 Đài tệ/tấn vào ngày 07/8 lên 15.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng ở Đài Trung. Nhà máy này giữ giá thu mua phế HMS 1&2 tại mức ổn định 7.600 Đài tệ/tấn.

Giá phế Đài Loan bình ổn dạo gần đây và các nhà máy đều có phế dự trữ, nên trong tuần này Feng Hsin không thể tăng giá mua phế nhưng vẫn có thể tăng giá thép cây do phí các nguyên liệu phụ như ferrovanadium và điện cực đã tăng quá mạnh nên không thể giữ giá thép cây được nữa.

Chẳng hạn như giá ferrovanadium đã tăng gấp đôi trong tuần qua lên 40 USD/tkg, đẩy chi phí sản xuất thép cây của Feng Hsin lên thêm 100-200 Đài tệ/tấn. Khoảng 70% sản lượng của nhà máy này đều bổ sung ferrovanadium vào để tăng độ chịu lực.

Một nhà máy ở Đài Nam xác nhận khoảng 70-80% thép cây của họ đều bổ sung vanadium để chống lại động đất. Vài nhà máy ở Đài Nam tăng giá thép cây thêm hơn 400 Đài tệ/tấn dựa vào chi phí 2 loại nguyên liệu trên gia tăng.

Theo nhà máy trên, p giá ferrovanadium và điện cực graphite đã tăng thêm 1.000 Đài tệ/tấn cho giá thép cây ở Đài Loan nên các nhà máy phải tăng giá thêm nữa trong mấy tuần tới.

Giá thép cây của Trung Quốc giảm lại sau khi tăng mạnh

Giá thép cây miền bắc Trung Quốc đã giảm nhẹ vào hôm thứ ba, sau khi tăng mạnh vào ngày thứ Hai lên mức cao nhất trong 5 năm. Các thương nhân cho rằng giao dịch sụt giảm do người mua chờ đợi. Quan điểm cho rằng giá thị trường giao ngay tăng từ cuối tuần trước chủ yếu là do đầu cơ.

Tại thị trường bán lẻ ở Bắc Kinh, giá thép câyHRB400 đường kính 18-25mm ở mức 4.020-4.040 NDT/tấn (600-603 USD/tấn) đã tính 17% thuế VAT, giảm 20 NDT/ tấn (3 USD/tấn) so với đầu tuần.

Trước đó, giá đã chạm mức cao nhất tính từ giữa tháng 7 năm 2012 đến nay. Như vậy, giá thép thanh vằn Trung Quốc đã tăng tới 180 NDT/tấn (27 USD/tấn) tính từ đầu tháng tới nay.

Một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết các thương nhân sẽ thận trọng điều chỉnh giá trong suốt tuần còn lại so với nhu cầu trong mùa hè. Ông giải thích, Hesteel Group, nhà sản xuất thép xây dựng lớn của Trung Quốc, sẽ công bố giá niêm yết trong nước vào giữa tháng 8.

Thêm vào đó, tâm lý thị trường suy yếu bởi một đợt giảm giá của phôi thanh Đường Sơn. Hôm qua, các nhà sản xuất cung cấp phôi thép tại Đường Sơn tỉnh Hà Bắc đã cắt giảm giá niêm yết của họ xuống 50 NDT/tấn còn 3.700 NDT/ tấn. Đây là lần giảm đầu tiên sau khi tăng tổng cộng 230 NDT/tấn 5 ngày trước đó.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn trên sàn SHFE chốt giảm 33 NDT/tấn, tương đương 0.8% so với hôm qua, còn 4.046 NDT/tấn.

Thép cây Châu Á ổn định

Thị trường thép cây Châu Á ổn định vào hôm qua do giá chào bán ổn định. Vài nhà máy từ chối chào giá hoặc tăng giá do lạc quan về triển vọng thị trường. Platts vẫn duy trì giá chào thép cây BS500 16-20mm xuất khẩu tại mức 527-531 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ hai.

Hai nhà máy Trung Quốc giữ giá chào ở mức 530-535 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết giao tháng 9 và tháng 10, tương đương 546-551 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một nhà máy đã tăng giá chào hôm thứ ba lên 20 USD/tấn, đạt mức 555 USD/tấn FOB lý thuyết. Một thương nhân lớn của Trung Quốc cho biết sẽ không chào bán trong thời gian này vì muốn chờ giá tốt hơn để bán.

Ở Hồng Kông, các giá chào từTrung Quốc ở mức 545-555 USD/tấn CFR cho thép cây 10-40mm, còn loại 10-32mm có giá 540 USD/ ấn CFR. Một lô hàng chứa tất cả các loại thép kể cả 40mm bán được ít nhất 565 USD/tấn, một nguồn tin cho biết. Thép cây Nga được chào bán ở mức 555 USD/tấn CFR sau một vài tuần gián đoạn. Đài Loan không đưa ra bất kỳ chào giá nào.

 

Một nhà môi giới cho biết hiện tại không ai mua ở mức 540 USD/tấn. Một nhà môi giới khác cho biết giá chào mua của ông ở mức rất thấp 530 USD/tấn CFR, khó được các nhà máy chấp nhận. Một vài giao dịch trong nước chốt ở mức 500-530 USD/tấn sau khi trừ chi phí hậu cần.

Ở Singapore, các chào giá vẫn không đổi. Các nhà máy Trung Quốc c chào giá ở mức 530-535 USD/tấn FOB và các nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ với giá 540 USD/tấn CFR lý thuyết, tương đương với trên 540 USD/tấn FOB Trung Quốc với chênh lệch khối lượng 3% và phí vận chuyển 10 USD/tấn.

 

Giá chào mua cao nhất được nghe là 520 USD/tấn CFR, tương đương 521 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Thép cây Nhật Bản tăng sau lễ

Giá thép cây Nhật Bản tăng ngay sau khi thị trường hoạt động trở lại sau lễ Obon. Giá hiện tại cho thép cây cỡ cơ bản ở Tokyo là 57.000-58.000 Yên/tấn (515-524 USD/tấn) trong khi ở Osaka, mức giá là 54.000-55.000 Yên/tấn (488-497 USD/tấn), cùng tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước.
Các nhà máy đang nhắm mục tiêu tăng giá xuất xưởng thép cây cỡ cơ bản 13-25mm lên 60.000 Yên/tấn do phế, điện cực, chất chịu nhiệt và các nguyên liệu phụ khác đều tăng giá. Kyoei Steel gần đây đã tăng giá thêm 2.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 8 như đã đưa tin trước đó.

Người mua hỏi giá ít hơn do đang trong lễ mùa hè (11/8-15/8) nhưng dự báo lượng chào mua sẽ tăng vào cuối tháng. Các khách hàng cần đặt mua sớm để giao sau mùa thu khi mà nhu cầu tiêu thụ lên cao điểm.

Một thương nhân phế ở Tokyo cho biết giá phế đã tăng và sẽ không giảm trong ngắn hạn.

Các nhà máy ở Kanto hiện đang mua phế H2 ở mức 28.000-29.000 Yên/tấn, tăng 2.000 Yên/tấn so với tháng trước.

Định giá phôi thanh CIS

Platts tăng giá xuất khẩu phôi thanh CIS thêm 2.50 USD/tấn, đạt mức 477.50 USD/tấn FOB vào hôm qua.

Có ba nhà máy nghe được chào giá từ CIS. Một nhà máy Ukraina chào tại mức 485 USD/tấn thanh toán trước trong khi nhà máy khác chào ở mức 490-495 USD/tấn và một nhà máy thứ ba chào tại mức 505 USD/tấn.

Giá thực tế tầm 480-490 USD/tấn FOB do giá phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tầm 505 USD/tấn xuất xưởng còn Trung Quốc là 510 USD/tấn xuất xưởng, theo một nguồn tin cho biết.

Một thương nhân khác cho biết phôi thanh CIS phải cao hơn giá bán 470 USD/tấn do phôi thanh Trung Quốc hiện tại là 510 USD/tấn xuất xưởng.

Giá gần mức 500 USD/tấn, theo một thương nhân Anh. Giá chốt gần đây ông thấy được là 470 USD/tấn FOB nhưng hiện tại đã không còn nữa.

Một nhà nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ cho biết phôi thanh CIS đã tăng lên 485-490 USD/tấn.

Chào giá có sẵn ở mức 480 USD/tấn FOB từ các nhà máy Nga.

Tấm mỏng Mỹ ổn định sau đợt tăng giá

Giá tấm mỏng Mỹ ổn định trong ngày hôm qua sau khi các nhà máy tăng giá hồi giữa tháng 7.
Khi các nhà máy tăng giá thêm ít nhất 25 USD/tấn vào giữa tháng 7, các nhà máy đặt mục tiêu giá HRC là 640 USD/tấn còn CRC là 840 USD/tấn. Người mua tránh các mức giá này, nhất là CRC và thép mạ.

Một nhà máy cho biết đang chào bán HRC và CRC ở mức 620 USD/tấn và 820 USD/tấn. Mặc dù các nhà máy gặp khó khăn với mức 640 USD/tấn thì đơn hàng HRC vẫn mạnh. CRC chào bán ở mức 800 USD/tấn nhưng đơn hàng tầm 500 tấn, không phải là đơn hàng nhỏ.

Người mua dần đặt hàng nhưng chưa mua nhiều. Một thương nhân cho biết giá mua HRC vẫn ở mức 620 USD/tấn chứ không thấp hơn. Tuy nhiên, ông dự báo giá sẽ giảm trong vài tuần tới.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC ổn định tại mức 620-630 USD/tấn và 790-810 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

HRC Trung Quốc giảm do đơn hàng suy yếu

Giá HRC Thượng Hải giảm vào hôm qua do sức mua yếu. Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống 90 NDT/tấn so với thứ hai, còn 4.070-4.090 NDT/tấn (607-610 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.

Trên sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt giảm 20 NDT/tấn, còn 4.010 NDT/tấn.

Vài khách hàng chào mua tại mức 4.050 NDT/tấn vào chiều hôm qua. Tuy nhiên, phần lớn các thương nhân nghĩ rằng giá giao ngay thép cuộn sẽ tăng trong tuần này và từ chối giao dịch.

Vài nhà tiêu thụ cuối, nhất là bên ngành chế tạo thép cấu trúc đang xem dõi tình hình thị trường HRC rất kĩ. Tuy nhiên, giá thép cuộn giao ngay ở mức cao khiến họ chọn cách chờ đợi.

Các nguồn tin cho biết vẫn chưa xác định rõ giá giao ngay sẽ thế nào nên sẽ theo xu hướng thị trường và tập trung vào các giao dịch nhỏ.

Các nhà máy Ấn Độ gặp kháng cự khi tăng giá HRC

Các khách hàng Ấn Độ chưa chịu trả thêm cho HRC sau khi vài nhà máy tăng giá chào bán. Do đó, các nhà máy lớn đã giảm giá xuống 800 Rupees/tấn (12 USD/tấn) trong tuần này sau khi người mua từ chối mức tăng 2.000 Rupees/tấn thông báo hồi tuần trước.

Trong ngày hôm qua, Platts định giá HRC IS 2062 3mm xuất xưởng Mumbai tại mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (557-572 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển. Sau khi tính thuế GST 18% thì giá tăng lên mức 41.890-43.070 Rupees/tấn.

Một nhà môi giới lo lắng về điều kiện thị trường trước tình hình tiêu thụ suy yếu.

Các nhà tiêu thụ cuối từ chối giá tăng. Nhu cầu tiêu thụ HRC vẫn yếu trong mùa mưa (tháng 6-9) do hoạt động xây dựng bị ngưng trệ dựa vào nước ngập. Tiêu thụ tấm lợp mái nhà suy yếu khiến tiêu thụ HRC giảm.

Người mua đang đàm phán kịch liệt, cố gắng buộc nhà máy giảm giá. Chỉ có vài thương nhân cần gấp nguyên liệu mới thu mua. Một nhà máy Mumbai cho biết giá chào đã thay đổi nhưng chưa bàn luận về lý do thay đổi.

Giá HRC Châu Á chững lại do giá thép Trung Quốc sụt giảm


Giá HRC Châu Á ổn định trở lại vào hôm qua sau khi tăng 4 ngày liên tục do giá thép Trung Quốc suy yếu sau khi đã bật tăng mạnh ở ngày trước đó. Platts giữ giá HRC SS400 3.0mm xuất khẩu Trung Quốc tại mức 536-540 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 90 NDT/tấn so với thứ hai, còn 4.070-4.090 NDT/tấn (607-610 USD/tấn) xuất xưởng kèm thuế.

Nhiều nhà máy lớn giữ giá chào ổn định ở mức 555-560 USD/tấn FOB cho HRC SS400 nhưng người mua vẫn im ắng và không đặt hàng. Người mua lo ngại sau khi giá chào các nhà máy này tăng mạnh trong khi giá nội địa Trung Quốc sụt giảm.

Một nhà máy thừa nhận không nhận dược bất cứ chào mua nào sau khi đã bán được một ít tại mức 530 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu tuần trước. Các khách hàng ngoài nước có thể chọn mua trong nước thay vì nhập khẩu.

Dù vậy, các nhà máy Trung Quốc không sẵn sàng giảm giá chào dù người mua không chấp nhận mức này. Một thương nhân Hàn Quốc cho biết các nhà máy Trung Quốc có thể bán được giá cao ở trong nước.

Trong khi đó, tiêu thụ thép cuộn SAE vẫn tốt và nguồn cung tương đối chặt chẽ. Một đơn hàng 6.000 tấn thép cuộn SAE Trung Quốc được chốt ở mức 550 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày thứ ba nhưng giao dịch trên chắc chắn là do các thương nhân bán chứ các nhà máy không còn chịu giá thấp vậy nữa.

Giá chào từ Trung Quốc, Ấn Độ và Đài Loan ở mức cao hơn 575-580 USD/tấn, 570 USD/tấn và 580-583 USD/tấn CFR Việt Nam.

Tấm dày Mỹ tiếp tục giảm

Tấm dày Mỹ tiếp tục mất giá vào hôm qua do sức mua vẫn yếu ớt dù có ít hàng nhập khẩu hơn.
Một trung tâm dịch vụ cho biết, sức mua vẫn yếu thậm chí khi 70.000 tấn thép nhập khẩu/tháng đã mất.

Cuộc điều tra 232 đã khiến lượng thép tấm nhập khẩu sụt giảm trong mấy tháng gần đây. Trong khi áp lực nhập khẩu suy yếu là tín hiệu tích cực cho các nhà máy thì dường như vẫn chưa đủ để đẩy giá tăng.

Mặc dù nhu cầu tiêu thụ yếu, ít nhất một nhà máy được nghe đang có dự định tăng giá thêm 30-40 USD/tấn trong tuần này. Các nhà máy Mỹ trước đó đã thông báo tăng giá tấm dày thêm 30 USD/tấn trong tháng 6 nhưng chưa được người mua chấp nhận hoàn toàn.

Một nguồn tin cho rằng giá tấm dày tăng chủ yếu do giá nguyên liệu thô tăng chứ không phải nhờ sức mua hoặc thời gian sản xuất dài. Giá phế Mỹ đã tăng 20 USD/tấn vào tháng 8 với giá tăng tại Southeast và triển vọng tháng 9 vẫn lạc quan.

Các nhà máy chào bán tấm dày thương phẩm A36 tại mức 680-710 USD/tấn  vào hôm qua.

Platts giảm giá tấm dày thương phẩm A36 xuốn 670-690 USD/tấn xuất xưởng đông nam Mỹ từ mức 685-705 USD/tấn trong ngày thứ hai.

Giá thép dài Đài Loan tăng nhờ sức mua bật tăng mạnh

Các nhà máy Đài Loan đang tận dụng lợi thế từ đà tăng của thị trường thép dài trong khi không có chào giá từ Trung Quốc. Giá phôi thanh và thép cây Đài Loan đang tăng cùng với sức mua mạnh.
Một lô phôi thanh Đài Loan giao tháng 9 được đặt mua tại mức 485 USD/tấn FOB Đài Loan vào hôm qua. Người mua được cho là một thương nhân Philippine.

Một thương nhân cho rằng giá tăng quá mạnh. Ông chưa nghe bất cứ giá chào nào sau khi có chào giá ở mức 485 USD/tấn FOB. Giá đang tăng theo dự báo lạc quan của các thương nhân. Trong ngày thứ sáu, phôi thanh Đài Loan được đặt mua tại mức 472 USD/tấn FOB cho thị trường Hàn Quốc.

Phôi thanh Hàn Quốc và Biển Đen hiện được chào bán tại mức 530 USD/tấn CFR. Các nhà máy Ấn Độ tăng giá phôi thanh lên 485 USD/tấn FOB trong tuần này, tăng 25-30 USD/tấn so với tuần trước.

Giá thép dài tăng tại Trung Quốc trong bối cảnh nước này cắt giảm sản lượng đang giữ phôi thanh ở lại thị trường trong nước. Hơn thế nữa, họ còn đang nhập khẩu phôi thanh.

Thép cây Đài Loan cũng tăng tương tự. Trong ngày thứ hai, giá thép cây 15mm tăng 400 Đài tệ/tấn (13 USD/tấn) lên 15.500-15.700 Đài tệ/tấn (513-520 USD/tấn) xuất xưởng. Với vài nhà máy ở trung và nam Đài Loan đang ngưng chào, các nguồn tin dự báo họ sẽ sớm tăng giá.

Một đơn hàng thép cây Đài Loan gần đây chốt ở mức 525 USD/tấn FOB tới Hàn Quốc nhưng giá xuất khẩu thép cây hiện cao hơn 15-20 USD/tấn.

HDG Thổ Nhĩ Kỳ ổn định nhưng vẫn có khả năng tiếp tục tăng

Giá nội địa và xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định trong tuần này sau khi tăng vào tuần trước, nhưng vẫn có triển vọng tăng tiếp tục dựa vào chi phí sản xuất và nhu cầu tiêu thụ.

Vài nhà máy tăng giá niêm yết thép mạ trong tuần trước, cùng với xu hướng tăng mạnh của HRC nội địa và nhập khẩu. Giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 540-560 USD/tấn xuất xưởng trong khi chào giá HRC nhập khẩu từ CIS đạt mức cao 525-530 USD/tấn CFR.

Nhu cầu tiêu thụ vẫn ổn định và dự báo sẽ sôi động hơn trong tháng 9. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ từ Châu Âu vẫn chậm trong khi cạnh tranh gay gắt, nhưng đã phục hồi phần nào từ khu vực Balkan.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn ổn định vào tuần này sau khi đạt mức 760-770 USD/tấn xuất xưởng trong tuần qua, trong khi chào giá xuất khẩu HDG 1.0mm là 700-720 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, giá chào HDG xuất khẩu vẫn thấp hơn giá niêm yết trong nước 10-20 USD/tấn do cạnh tranh gay gắt trên thị trường.

Giá chào PPGI 9002 0.5mm trong nước ổn định ở mức 850-860 USD/tấn xuất xưởng.

 Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tiếp tục tăng

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tiếp tục tăng tuần thứ hai liên tiếp tính tới tuần này. Platts tăng giá chào CRC SPCC 1.0mm xuất khẩu Trung Quốc thêm 27 USD/tấn so với tuần trước, lên mức 570-575 USD/tấn FOB Trung Quốc vào hôm qua. Platts sử dụng thông tin thị trường gần kề với CRC nội địa Trung Quốc để đánh giá CRC xuất khẩu do không có giao dịch trong ngày.

Chênh lệch giá CRC và HRC xuất khẩu là 34.5 USD/tấn vào hôm qua.

Trong cùng ngày, giá CRC cùng loại tại thị trường nội địa tăng 215 NDT/tấn so với tuần trước, đạt mức 4.550-4.590 NDT/tấn (679-685 USD/tấn). Một thương nhân cho biết các giao dịch trên thị trường giao ngay tạm tạm sau khi giá tăng từ tuần qua.

Trong ngày thứ ba, giá chào CRC từ hai nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đạt mức 600 USD/tấn FOB. Các nhà máy khác đã ngưng chào giá hoặc chỉ đàm phán tùy trường hợp. Một thương nhân tin rằng các nhà máy khác sẽ hưởng ứng giá chào 600 USD/tấn FOB.

Một thương nhân cho biết vẫn còn hy vọng các giao dịch sẽ được chốt tuần này khi giá chào từ các nhà máy là 570-580 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, mức 600 USD/tấn rất khó được chấp nhận lúc này.

Trong tuần trước, có vài đơn hàng chốt ở mức 560-570 USD/tấn fob. Vài khách hàng vẫn sẵn sàng mua ở mức trên trong tuần này nhưng các nhà máy không còn muốn bán giá đó.

Một trong các nguồn tin cho rằng miễn là thị trường nội địa mạnh thì các khách hàng ngoài nước sẽ dần chấp nhận trả thêm thậm chí lựa chọn mua ít.