Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 10/01/2014

HDG Trung Quốc vẫn giữ giá ổn định do nguồn cung khan hiếm

Giá cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) tại thị trường Trung Quốc hôm thứ Tư vẫn giữ nguyên không đổi và lượng giao dịch chậm lại. Công tác vận chuyển hàng hóa từ các nhà máy đến thị trường Thượng Hải chậm hơn bình thường. Hôm 08/01, HDG DX51D 1.0mm phủ 80 gram kẽm trên một mét vuông được giao dịch với giá 4.460-4.500 NDT/tấn (737-743 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải, giống với giá niêm yết hôm 02/01 của Platts.

Một đại lý lớn ở Thượng Hải nói rằng công ty ông hiện nay giữ rất ít HDG trong kho. “Nguồn hàng từ cả hai nhà máy Shougang và Benxi Iron & Steel ở miền bắc là rất khan hiếm tại Thượng Hải, một số đại lý có lẽ đã ngừng nhập hàng từ hai nhà máy này do giá cao”, ông giải thích. Khối lượng HDG của Shougang vận chuyển đến Thượng Hải chỉ còn khoảng ¼ so với mức bình thường, nhưng nguồn hàng cung cấp từ các nhà máy nhỏ hơn vẫn tiếp tục dồi dào.

Giá HDG của nhà máy Shougang và Maanshan Iron & Steel ở miền đông cao hơn 20-30 NDT/tấn so với các nhà máy khác trong vài ngày qua và xu hướng tăng đã giúp cải thiện niềm tin thị trường và ngăn không cho giá đi xuống mặc dù giá thép dài và HRC đều đang suy yếu.

Một nhà phân tích ở Thượng Hải nghi ngờ rằng các nhà máy đang găm giữ hàng để hỗ trợ cho giá giao ngay hoặc đang cung cấp trực tiếp cho những nhà tiêu dùng trực tiếp, do các đại lý ở cả miền đông và nam Trung Quốc đều than phiền lượng HDG tồn kho còn ít và các nhà máy cho biết đã ngưng sản xuất.

Các đại lý tỏ ra quan ngại về lợi nhuận hơn là vấn đề doanh số bán ra vào cuối năm và không muốn hạ giá thêm nữa để kích cầu, điều này đã hậu thuẫn cho HDG không bị rớt giá. Theo một nhà phân tích ở Thượng Hải, HDG tồn kho tại các nhà kho lớn tính đến ngày 03/01 còn tổng cộng 129.000 tấn, tăng 500 tấn so với tuần trước đó.

 

Anshan I&S nâng giá xuất khẩu HRC tới Nhật Bản

Nhà máy Anshan Iron & Steel (Angang) Trung Quốc sẽ tăng 10 USD/tấn đối với giá xuất khẩu HRC cho những lô hàng giao tháng 02 tới Nhật Bản. Nhà máy này đang chào bán HRC loại SPHC dày 3.2-12mm cho những khách hàng người Nhật với giá mới khoảng 585 USD/tấn CFR Nhật Bản.

Các quan chức tại văn phòng Osaka của Angang không đưa ra bình luận hôm thứ Năm nhưng một thương nhân ở Nhật nhận thấy rằng Angang nâng giá là vì nhu cầu tiêu thụ HRC ở Nhật tăng và đồng Yên Nhật mất giá.

Giá HRC tháng 02 của Angang gồm phí vận chuyển tới Nhật sẽ khoảng 61.880-62.400 Yên/tấn (595-600 USD/tấn). “Mức giá này gần bằng với giá của các nhà máy hợp nhất Nhật Bản nên khách hàng muốn mua HRC nội địa hơn. Nhưng nguồn cung trong nước không đủ để đáp ứng nên họ đành phải trông cậy vào hàng nhập khẩu”, một thương nhân miền tây Nhật Bản nói.

HRC SPHC 1.7-22mm được sản xuất bởi các nhà máy hợp nhất Nhật Bản hiện nay có giá giao ngay khoảng 62.000-63.000 Yên/tấn. “Nhưng hàng nhập khẩu ít cạnh tranh hơn do đồng Yên Nhật suy yếu nên khả năng Angang xuất được nhiều hàng sang Nhật là rất khó”, một thương nhân ở Tokyo nói.

HRC được sản xuất từ nhà máy Tokyo Steel Manufacturing có giá cao hơn nhưng khách hàng vẫn muốn mua hơn so với sản phẩm của nhà máy quy mô nhỏ. Giá HRC niêm yết của Tokyo Steel là 66.000 Yên/tấn cho những hợp đồng tháng 01 nhưng giá giao dịch thực tế chỉ khoảng 64.000 Yên/tấn.

Nhật đã nhập khẩu 46.563 tấn HRC từ Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2013, giảm mạnh 40,3% so với cùng kỳ năm trước, theo Hiệp hội sắt thép Nhật Bản.

 

HRC Ấn Độ tăng giá do nhu cầu tiêu thụ trong nước cải thiện

Giá thép cuộn cán nóng (HRC) tại thị trường Ấn Độ vẫn tiếp tục giữ ổn định trong tháng 01 sau khi tăng 1.000 Rupee/tấn (16,1 USD/tấn) vào tuần trước. Hàng nhập khẩu vẫn còn mờ nhạt do không thu hút được thị trường trong nước, đa số các nhà máy Ấn Độ đều đang nắm thế chủ động tại thị trường nội địa. “Người mua trong nước không có sự lựa chọn nếu như không mua của chúng tôi”, một quản lý cấp cao của nhà máy thép hợp nhất hàng đầu ở Ấn Độ nói.

HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên có giá giao dịch bình quân khoảng 37.000-38.000 Rupee/tấn (595-612 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Tư, không đổi so với tuần trước đó. Mức giá này tương đương cỡ 553-569 USD/tấn CFR Mumbai gồm thuế nhập khẩu 7,5%.

Các thương nhân Trung Quốc vẫn giữ chào giá HRC loại SS400 dày từ 3mm trở lên quanh mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 1,8% tương đương 5 USD/tấn. Cộng thêm phí vận chuyển tới Ấn Độ thì giá ít nhất là 585-595 USD/tấn CFR Mumbai.

“Chúng tôi bắt đầu nhìn thấy nhu cầu tiêu thụ trong nước cải thiện vì rằng chúng tôi sắp sửa kết thúc năm tài chính”, một quan chức nhà máy ở Mumbai nói. Một yếu tố khác có thể hỗ trợ cho thị trường trong nước đó là sự phục hồi của thép xuất khẩu. “Về thị trường xuất khẩu, chúng tôi đã nhận đủ đơn đặt hàng giao tháng 01”, ông nói.

Một thương nhân ở Mumbai cho biết giá HRC nội địa có thể sẽ giữ ở mức ổn định do chi phí nguyên liệu đang tăng. Cụ thể, giá quặng sắt trong nước đã tăng lên trong suốt quý III khiến các nhà máy phải nỗ lực nâng giá bán lên để khách hàng bù đắp cho phần chi phí tăng thêm. Tuy các nhà máy đã gặp phải sự phản ứng kịch liệt và khó mà thuyết phục được khách hàng chịu chấp nhận mua với giá cao hơn, nhưng xem ra có vẻ như các nhà sản xuất đã cương quyết giữ giá bán của mình.

Nhà cung cấp quặng sắt lớn nhất nước, NMDC đã nâng giá quặng tinh 64% Fe lên 5% cho hàng giao tháng 12 và vẫn giữ ở mức giá này cho đến tháng 01.

 

Thị trường tấm mỏng Mỹ vẫn trầm lắng

Thị trường tấm mỏng Mỹ vẫn trầm lắng trong ngày 9/1 với giá tại Nam mỹ trở nên cạnh tranh hơn.

Một nhà máy hàng đầu cho biết đầu tuần này, một nhà máy phía Nam đã cung cấp mức giá cạnh tranh mạnh để thúc đẩy doanh số bán.

Platts vẫn duy trỳ giá HRC và CRC lần lượt tại mức 680-690 USD/tấn ngắn và 790-800 USD/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.

 

Nhu cầu tiêu thụ và giá  thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ phục hồi trong tháng 2

Nhu cầu tiêu thụ thấp tại thị trường trong nước lẫn xuất khẩu đã gây áp lực hạ giá tới hai mặt hàng HDG và PPGI Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, giá nguyên liệu thô tăng cộng với đồng Lira suy yếu đã buộc các nhà máy này tối thiểu phải duy trì giá bán tại mức hiện tại.

Hầu như các nguồn tin đều cho rằng giá cả sẽ diễn biến ổn định cho tới tháng 2. Thực tế, đồng Lira suy yếu sẽ hỗ trợ giá. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ từ các nước CIS và Trung Đông- Bắc Phi cũng dự báo tăng trong những tuần tới.

Giá PPGI Thổ Nhĩ kỳ đã suy yếu thêm 10 USD/tấn, xuống còn mức 960-1.000 USD/tấn xuất xưởng vào cuối tháng 12. Các nhà máy cho tới nay vẫn duy trì giá PPGI 9002 0.5mm tại mức này. Họ đang chào bán HDG 0.5mm tại mức 780-800 USD/tấn xuất xưởng, trong khi HDG 1mm là 750-760 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần qua.

Trong khi đó, giá chào bán HRC từ các nhà máy  trong nước vẫn ổn định tại mức 600-610 USD/tấn xuất xưởng với vài giao dịch diễn ra tại mức 590 USD/tấn.

Các nhà máy phôi thanh CIS đã bắt đầu chào bán trở lại tới các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần này, tuy nhiên, do thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu nên nhu cầu tiêu thụ cũng chậm chạp.

Giá chào đạt mức 530 USD/tấn CFR Iskenderun đối với lô hàng tháng 2, tuy nhiên, doanh số bán thấp. Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm nguồn nguyên liệu nhập khẩu rẻ hơn.

Cũng trong thời điểm này, Kardemir đã bán 190.000 tấn thép thành phẩm tại mức giá trung bình 521 USD/tấn xuất xưởng Karabuk tới Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, kéo giá nhập khẩu giảm trở lại trong khi  giá chào lô hàng tháng 1-2 tới tại mức 520-525 USD/tấn CFR Aliaga không được quan tâm.

Một vài thương nhân cho biết có thông tin về lô hàng được giao vào 10 ngày cuối tháng 1 tới Ả Rập Saudi và Ai Cập, tiêu biểu là lô hàng  35.000 tấn  được giao vào xuối tháng 1  tại mức 530 USD/tấn CFR Yanbu trong khi giá đạt mức 525-530 USD/tấn CIF Ai Cập.

Platts hạ giá phôi thanh CIS xuống mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen.

Tại sàn giao dịch điện tử CME, các chào mua tháng 1 nằm ở mức 505 USD/tấn trong ngày 8/1, giảm 9.55 USD/tấn so với ngày trước đó. 

Một số nhà máy Trung Quốc hạ chào giá HRC xuống một chút 

Do lượng giao dịch HRC xuất khẩu chậm hơn và giá trong nước đang đi xuống nên một số nhà máy Trung Quốc đã hạ chào giá xuất khẩu xuống khoảng 5 USD/tấn so với tuần trước đến mức thấp nhất của giá phổ biến trên thị trường. Tuy nhiên, một số nhà xuất khẩu tin rằng giá không thể giảm thêm nhiều được trừ phi giá trong nước tiếp tục lao dốc.

Một nhà máy miền bắc đã giảm 5 USD/tấn đối với chào giá HRC SS400B dày từ 3mm trở lên so với tuần trước còn 540 USD/tấn FOB, một nhà máy miền đông cũng giảm chào giá loại thép này với mức tương tự xuống còn 530 USD/tấn FOB.

Tuy nhiên, chào giá của các nhà máy khoảng 530-535 USD/tấn FOB, duy trì từ tuần trước đến nay. Một số thương nhân xuất khẩu cho biết giá có thể giao dịch từ những nhà máy này cũng duy trì quanh mức 525-530 USD/tấn FOB.

Số lượng đơn đặt hàng đã cải thiện khi nhà máy thay đổi giá xuất khẩu từ 535 USD/tấn FOB xuống 530 USD/tấn FOB và giá có thể sẽ duy trì ở mức này thêm một thời gian nữa. Nhu cầu tiêu thụ có thể tốt hơn vào tuần tới do người mua sẽ quay lại thị trường giao dịch nhiều hơn.

Tuy nhiên, một số thương nhân lo ngại rằng giá trong nước đang suy yếu có thể kéo giá xuất khẩu lao dốc theo, cụ thể số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu của họ đã giảm mạnh trong tháng 01 do nghỉ lễ.

Số lượng đơn đặt hàng nhận được từ các nhà máy gần đây cũng giảm nhưng họ vẫn không bị nhiều sức ép vì đã có gần đủ đơn hàng xuất khẩu HRC cho tháng 02. Tuy nhiên, nếu giá trong nước tiếp tục đi xuống và người mua ở nước ngoài không sớm quay lại thị trường thì rất khó để nói liệu các nhà máy vẫn có thể tiếp tục không lo lắng như hiện nay được không.

Hôm thứ Năm, HRC Q235 5.5mm có giá 3.460-3.480 NDT/tấn (572-575 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.570-3.610 NDT/tấn tại thị trường Lecong (Quảng Đông), không đổi so với ngày trước đó. Các thương nhân trong nước cho biết lượng hàng tồn kho trên thị trường còn thấp đã giúp cho giá không thể giảm thêm vào thứ Năm và cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ cho giá giao ngay sau này.

 

Giá phế vụn Midwest tăng 20 USD/tấn

Các nhà máy Midwest cho biết đang trả cao hơn cho phế vụn tháng 1 thêm 20 USDE/tấn dài để hưởng ứng theo các nhà máy Northeast đầu tuần này trong khi hầu hết các nhà máy Southeast chỉ trả cao hơn 10-15 USD/tấn dài.

Platts cũng nâng giá phế vụn thêm 20 USD/tấn dài trong ngày 9/1, đạt mức 435-445 USD/tấn dài.

Sau khi vài giao dịch phế khối lượng nhỏ được chốt vào đầu tuần tại mức cao 455-460 USD/tấn tại Midwest, động lực hỗ trợ giá tăng đã bị suy yếu do hầu hết các nhà máy ngần ngại trả giá trong phạm vi này.

Sự tràn vào ồ ạt của hàng nhập khẩu không mong muốn cũng làm suy yếu giá trong nước, tiêu biểu là phế Busheling Canada và phế cũ cùng với phế chất lượng cao từ Bờ Biển Tây Mỹ .

Giá phế vụn Southeast hầu như được chốt tại mức 425-430 USD/tấn dài trong khi phế busheling chốt tại mức 440-450 USD/tấn dài. 

Thép cây xuất khẩu của Trung Quốc rớt giá giữa bối cảnh thị trường trong nước suy yếu 

Giá thép cây xuất khẩu của Trung Quốc đã chững lại trong tuần này cùng với sự suy yếu hơn của thị trường thép cây trong nước. Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên xuất xứ Trung Quốc khoảng 505-515 USD/tấn FOB hôm 09/01, giảm 5 USD/tấn từ tuần trước.

Hôm thứ Năm, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở miền bắc Trung Quốc nhích nhẹ lên 3.310-3.320 NDT/tấn (547-54 USD/tấn) gồm VAT 17%. Tính từ thứ sáu tuần trước đến thứ Tư tuần này giá đã giảm tổng cộng 75 NDT/tấn còn 3.300-3.320 NDT/tấn.

Tương tự, giá thép cây xuất khẩu trong tuần này cũng trên đà lao dốc. Chào giá tại thị trường thép cây trọng lượng lý thuyết ở Singapore hiện nay khoảng 510-525 USD/tấn CFR, giảm so với mức 515-530 USD/tấn CFR của tuần trước. Chào giá tuần này tương đương khoảng 505-520 USD/tấn FOB tính theo trọng lượng thực tế (phí vận chuyển bình quân cỡ 20 USD/tấn).

Người mua vẫn còn thưa thơt mặc dù chào giá đã giảm 10 USD/tấn xuống còn 520 USD/tấn CFR Singapore. Các nhà nhập khẩu đã rời khỏi thị trường do giá trong nước đi xuống và sức mua cũng giảm sút vì sắp đến mùa mưa ở Singapore cộng thêm đang gần tới Tết.

Nhưng một đại diện nhà máy cho biết chào giá mới của nhà máy là 510 USD/tấn CFR Singapore, cũng thấp hơn 10 USD/tấn so với thứ năm tuần trước đã giúp thu hút được nhiều người mua.

Hôm thứ Năm, các nhà dự trữ ở Singapore cho biết họ đã nhận được chào giá thép cây thấp nhất chỉ có 515 USD/tấn CFR  trong tuần này nhưng mức giá 510 USD/tấn CFR  là có thể đặt mua được.

Tại thị trương thép cây tính theo trọng lượng thực tế của Hong Kong, có chào giá khoảng 520-530 USD/tấn CFR  (phí vận chuyển cỡ 15 USD/tấn). Một thương nhân nghe nói đã có một giao dịch được thực hiện hồi đầu tuần này với giá chỉ có 525 USD/tấn CFR.   

Thị trường thép tấm EU ổn định trong tháng 1

Thị trường thép tấm Châu Âu hiện vẫn bình ổn. Các kỳ Lễ cộng với việc ngưng sản xuất tại vài nhà máy đã làm chậm lại các hoạt động trên thị trường vốn đã suy yếu. Và mặc dù nếu các giao dịch có sôi nổi hơn trong tuần tới hay sau đó nữa thì các nguồn tin vẫn cho rằng sẽ không có gì thayd dổi cả. Họ tin rằng động lực thúc đẩy giá tăng dường như chỉ diễn ra vào cuối Qúy 1 do giá hiện tại thấp và lợi nhuận không ổn định.

Một nhà máy  tích hợp Đức cho biết các đơn hàng Qúy 1 được đặt tại mức giá không đổi so với tháng trước với giá thép tấm S235 đạt mức 570-580 Euro/tấn. Theo nhà máy này, thép tấm thương phẩm loiaj S235 vẫn đang đứng ở mức 520 Euro/tấn xuất xưởng.

Một nhà máy khác ở Đức cho hay mức giá 520 Euro/tấn xuất xưởng dường như đã là giá cao nhất do hàng nguyên liệu thô giá rẻ vẫn đang có sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, nhà máy này nghi ngờ khả năng giá sẽ giảm xuống dưới 500 Euro/tấn. Platts vẫn duy trì giá thép tấm tại mức 510 Euro/tấn xuất xưởng trong ngày 9/1.

Các nhà máy Đông Âu vẫn cung cấp giá chào cạnh tranh với giá từ Ba Lan là 480-490 Euro/tấn xuất xưởng trong khi Romania là 470 Euro/tấn hoặc thậm chí thấp hơn thế.

Giá nhập khẩu từ các nước thứ 3 cũng suy yếu. Một thương nhân cho biết giá chào từ Trung Quốc là 435-440 Euro/tấn CFR Antwerp, tương tự tháng trước. Platts vẫn giữ giá nhập khẩu thép tấm tại mức 437.5 Euri/tấn CFR Antwerp. Các nhà máy Ukraina cũng đưa ra giá chào cạnh tranh, thấp nhât là chào vào Ba Lan tại mức 615-620 USD/tấn (453-457 Eiro/tấn) DAF. 

Giá HDG xuất khẩu Trung Quốc có nhiều dấu hiệu phục hồi trở lại

Giá thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) xuất khẩu của Trung Quốc hôm thứ Năm vẫn giữ ổn định, nhưng nhiều thương nhân cho rằng các nhà máy sẽ nâng chào giá. Giá giao ngay phục hồi ở thị trường nội địa đã giúp cải thiện niềm tin và khuyến khích các nhà máy giữ giá không đổi.

Hôm thứ Tư, chào giá phổ biến của HDG DX51D 1.0mm phủ 80 gram kẽm quanh mức 665-670 USD/tấn FOB Thượng Hải, không đổi từ ngày 12/12, và Platts tăng thêm 5 USD/tấn lên 660-665 USD/tấn do các thương nhân không muốn chiết khấu thêm nữa. Có nhiều dấu hiệu cho thấy giá HDG xuất khẩu đã bắt đầu tăng trong vài ngày qua.

Một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết đã giữ chào giá HDG không đổi trong một thời gian do giao dịch trì trệ và nhà máy không có ý định giảm giá bán để thu hút người mua. Một thương nhân khác nói rằng HDG xuất khẩu tương đối tốt so với các sản phẩm khác như HRC và CRC nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng vọt từ Hàn Quốc.

Một thương nhân ở Thượng Hải cho hay một số nhà máy đã nhận được nhiều đơn đặt hàng và thời gian giao hàng kéo dài đến tận tháng 04 nên rất có thể họ sẽ nâng chào giá lên sau đó  nhưng mức tăng sẽ rất hạn chế.

Hai nhà máy ở miền bắc chào bán HDG phủ 120 gram kẽm với giá khoảng 675-680 USD/tấn và có lẽ họ sẽ nâng chào giá lên trong tuần này trước Tết âm lịch. Tuy nhiên, giá thép dài và HRC đã đi xuống trong tuần qua có thể làm hạn chế đà tăng của HDG trong nước và xuất khẩu.

Giá HDG trong nước cũng vẫn tiếp tục duy trì ổn định hôm thứ Năm; cụ thể HDG DX51D 1.0mm phủ 80 gram kẽm vẫn chốt tại 4.460-4.500 NDT/tấn (737-743 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải từ hai tuần trước tới nay. 

Thép cây Northwest Châu Âu bình ổn tại mức giá trước Lễ giáng Sinh

Giá thép cây Northwest Châu Âu bình ổn tại mức giá trước Lễ giáng Sinh do người mua và các thương nhân đã trở lại thị trường trong tuần này, tuy nhiên, các giao dịch diễn ra trì trệ.

Theo nguồn tin cho hay, giá tại Đức vẫn đạt mức 260-270 Euro/tấn giá giao cơ bản. Thời tiết dịu giúp duy trì các hoạt động xây dựng, tuy nhiên khối lượng các giao dịch còn nhỏ, đơn hàng lớn nhất chỉ là 300-400 tấn.

Cho tới nay, các nhà máy vẫn chưa quyết định tăng hay hạ giá mặc dù giá phế tháng 1 có thể tăng 5 Euro/tấn hỗ trợ giá thép thành phẩm tăng.

Dù vậy, giá vẫn có khả năng giảm nếu tình hình chính trị tại Thổ Nhĩ Kỳ bất ổn hơn nữa. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán thép cây tại mức 580 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ đối với lô hàng giao tháng 2, tương đương 450 Euro/tấn CFR Rotterdam.

Các nhà máy Đức cho biết hiện tại bây giờ họ vẫn chưa chịu áp lực từ hàng nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi các thương nhân cho biết chỉ có vài người có khả năng mua các lô hàng lớn từ Thổ Nhĩ Kỳ. Họ phải mua ít nhất là 10.000-20.000 tấn mới có thể bù đắp chi phí vận tải và tàu cảng, tuy nhiên hiện tại chỉ vài thương nhân dám chấp nhận rủi ro trong việc nhập hàng Thổ Nhĩ Kỳ cuối tháng 2.

Trong khi đó, tình hình tại các vùng khác ở Tây Bắc Châu Âu cũng tương tự như Đức. Tại Pháp, nhà máy  thép cây Riva đang chào bán tại mức 250 Eiro/tấn giá giao cơ bản. một người mua cho biết giá mua cũng không đổi, nhưng ông chỉ phải trả 240 Euro/tấn giá giao cơ bản. Trong khi theo các nguồn tin Benelux cho hay, giá thép cây Pháp đang đạt mức 250 Euro/tấn và thép cây Đức là 270 Eiro/tấn giá giao cơ bản.

Trong ngày 9/1, Platts giữ nguyên giá thép cây xuất xưởng northwest Châu Âu tại mức 487.5 Euro/tấn giá giao thực tế.