Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 10/12/2019

Gerdau, SDI, Nucor tăng giá niêm yết thép dầm WF 30 usd/st 

Sau khi tăng 30 usd/st đối với các sản phẩm thép dầm được Nucor công bố vào thứ Sáu, Gerdau Long Steel North America và Steel Dynamics Inc. cũng tăng giá niêm yết thép dầm WF 30 đô la/st, theo thư được gửi độc lập bởi hai công ty hôm thứ Hai.

Tất cả các đơn đặt hàng được xác nhận với Nucor vào ngày 6 tháng 12 sẽ được bảo vệ giá nếu được giao trước ngày 6 tháng 1. Theo thư của SDI và Gerdau, các đơn hàng được xác nhận  vào ngày 9 tháng 12 cũng sẽ được bảo vệ giá nếu được giao trước tháng 6/1

Giá HDG của Mỹ tăng cao hơn do nguồn cung khan hiếm

Giá HDG của Mỹ đã tăng cao hơn vào thứ Hai do nguồn cung khan hiếm đang giữ mức giá chào bán ổn định.

Chỉ số HDG hàng tuần tăng 9,75 đô la/st lên 839,75 đô la/st, bao gồm phụ phí lớp phủ G90 khoảng 70 đô la/st so với giá cơ bản.

Người mua chỉ ra rằng thị trường HDG vẫn đang thắt chặt và giúp các nhà máy giữ mức giá cao hơn 200 usd/st so với giá HRC

Theo một nguồn tin của trung tâm dịch vụ, hai nhà máy mini đã thành công trong việc lấp đầy các đơn hàng thép mạ của họ trong khi hầu hết các nhà máy khác đang hoạt động với các đặt mua ổn định.

Ông chỉ ra rằng giá chòa bán giao ngay cho giá cơ sở HDG ở mức 720-760 usd/st, không bao gồm phụ phí mạ kẽm. Nguồn tin cho biết ông không hoạt động trong thị trường giao ngay vì ông có thể mua tất cả các vật liệu cần thiết ngoài hợp đồng với chiết khấu.

“Tôi không mong đợi HRC và HDG sẽ giữ được mức tăng giá gần đây. Nhu cầu không đủ. Thị trường không phải là một thảm họa nhưng nó cũng không đạt được tốc độ,” nguồn tin nói thêm.

Một nguồn tin bên mua cho biết ông đang được chào bán giá cơ sở HDG ở mức 780 đô la/st, không bao gồm phụ phí mạ kẽm. Ông đồng ý thị trường rất thắt chặt, đó là lý do tại sao các nhà máy có thể duy trì mức chênh lệch xấp xỉ 200 usd/st so với giá HRC. Tuy nhiên, ông dự kiến chênh lệch này sẽ thu hẹp lại vào cuối năm nay.

 

Các nhà máy vẫn đang duy trì mức chênh lệch 200-210 usd/st so với HRC trước sự hoài nghi của một nguồn trung tâm dịch vụ Trung Tây. Ông đã dự kiến mức chênh lệch sẽ giảm trong năm 2019 nhưng thay vào đó nó đã mở rộng, ngay cả khi cố gắng đàm phán các thỏa thuận gói lớn hơn bao gồm HRC và HDG. Ông đã ép các nhà máy chốt giá năm 2020 cho HDG với mức chênh lệch thu hẹp lại so với HRC, với khả năng thành công rất thấp.

Phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ được hỗ trợ hơn nữa nhờ vào nhu cầu mạnh mẽ

Giá nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp tục tăng hôm vào thứ Hai dựa vào những tín hiệu giao dịch mới và các giao dịch được báo cáo trên thị trường.

Định giá nhập khẩu phế HMS 1/2 (80:20) Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 292,50 usd/tấn CFR hôm thứ Hai, tăng 2,50 đô la/tấn so với thứ Sáu.

Một thỏa thuận được chốt vào cuối tuần trước, liên quan đến một nhà tái chế Baltic và một nhà máy ở Izmir và bao gồm 20.000 tấn với mức giá 288,25 usd/tấn và 5.000 tấn với mức giá 299,25 usd/tấn, đã được báo cáo hôm thứ Hai và củng cố các chỉ số giá 290 usd/tấn trích dẫn vào cuối tuần trước.

Tuy nhiên, trong bối cảnh quan tâm thu mua liên tục mạnh mẽ, giá nhập khẩu đã tăng lên trên mức 290 usd/tấn, theo một số tín hiệu và chỉ báo trên thị trường.

Trong khi các giá chào bán deapsea thưa thớt cho premium HMS 1/2 (80:20) được quote ở mức 295-297 usd/tấn, một nhà tái chế ở Mỹ đã được nghe nói chào bán HMS 1/2 (80:20) với giá 295 usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ vào Thứ Hai .

“Không còn người bán nào ở mức 292-293 usd/tấn nữa,” một nguồn tin bên bán Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Một số tín hiệu giao dịch từ thị trường short-sea và smaller-clip với giao hàng nhanh hơn cho thấy nhu cầu mạnh mẽ của Thổ Nhĩ Kỳ đối với phế thép sẽ bù đắp cho mức tồn kho thấp hiện tại trong tháng 12 và tháng 1.

Một nhà tái chế Baltic đã bán 8.000 tấn HMS 1/2 (95: 5) với giá 300 usd/tấn cho nhà máy cảm ứng Iskenderun, cho thấy các lô hàng nhỏ hơn, nhanh hơn như vậy có khả năng giao dịch ở mức cao hơn một chút so với các tàu deep-sea lớn hơn giao hàng vào cuối tháng 1.

Do đó, nhiều nguồn tin thị trường duy trì kỳ vọng của họ về mức 300 usd/tấn cho HMS 1/2 (80:20) vào cuối chu kỳ thu mua này.

Theo một số nguồn tin thị trường, tại thị trường thép thành phẩm, các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã mở các giá chào bán của họ cao hơn đáng kể ở mức 440-450 usd/tấn FOB cho rebar trước áp lực lợi nhuận gần đây, hiện đang chống lại mức bán tối thiểu 440 USD/tấn FOB.

Billet đã được chào bán ở mức 420 usd/tấn FOB, một thương nhân cho biết.

Chênh lệch giá thép cuộn 2 vùng nam bắc Châu Âu nới rộng ra

Chỉ số cuộn cán nóng được định giá thứ Hai ở mức 431,50 euro/tấn (477,71 usd) xuất xưởng Ruhr, tăng 1,50 euro so với định giá hôm thứ Sáu.

Một nguồn tin nhà máy châu Âu cho biết giá trị có thể giao dịch là ở mức 430 euro/tấn xuất xưởng Ruhr, và ông dự kiến giá sẽ ổn định trước khi tăng hơn nữa vào giữa quý đầu tiên của năm tới.

"Giá đã tăng cho các giao dịch giao ngay cũng như hợp đồng. Nó sẽ tiếp tục tăng trong năm tới và khách hàng sẽ phải chấp nhận các mức tăng này," nguồn tin cho biết và nói thêm: "Nhập khẩu khá cao nên họ không có nhiều lựa chọn thay thế ngoài việctrì hoãn mua hàng."

"Việc cắt giảm sản xuất sẽ ảnh hưởng đến mức giá chào bán, sẽ đáp ứng nhu cầu ở mức giá cao hơn", nguồn tin nói thêm. "Tuy nhiên, tôi không thể nói là bao nhiêu."

Một nguồn trung tâm dịch vụ tại Scandinavia cho biết giá trị có thể giao dịch là 435 euro/tấn xuất xưởng Ruhr, và ông đã trì hoãn bất kỳ sự tăng giá nào hơn nữa trước khi kết thúc quý đầu tiên của năm tới.

"Các nhà máy đã tăng giá chào bán, nhưng chúng tôi sẽ không chấp nhận mức tăng này vì mức đặt hàng thấp hơn dự kiến", nguồn tin cho biết.

"Không chỉ chúng tôi đang thấy nhu cầu dự kiến giảm từ lĩnh vực ô tô, mà còn từ lĩnh vực xây dựng", nguồn tin nói thêm. "Do đó, tôi không thấy bất kỳ sự tăng giá nào trước khi kết thúc quý đầu tiên của năm tới.

Cuộn cán nóng Nam Âu được định giá hôm thứ Hai tại 421 euro/tấn xuất xưởng Italy, giảm 2 euro so với định giá hôm thứ Sáu.

Một nguồn trung tâm dịch vụ Italy cho biết giá trị có thể giao dịch là 418,50 euro/tấn xuất xưởng Italy, và ông đã không thấy trước bất kỳ sự tăng giá nào nữa trước khi kết thúc năm.

"Khách hàng đã mua đủ nguyên liệu trong hai đến ba tháng tới vào tuần trước trước khi giá có thể tăng hơn nữa", nguồn tin cho biết: "Bây giờ họ đã dừng lại vì giá yêu cầu thậm chí còn cao hơn đối với cả nguyên liệu trong nước và nhập khẩu."

"Các trung tâm dịch vụ thép cũng đang gặp khó khăn để chuyển chi phí gia tăng đến người tiêu thụ", nguồn tin nói thêm.

Một nguồn trung tâm dịch vụ khác của Italy cho biết giá trị có thể giao dịch là ở 418-420 euro/tấn xuất xưởng Italy và nhu cầu rõ ràng đã giảm kể từ tuần trước.

"Nhu cầu từ các trung tâm dịch vụ đã giảm so với tuần trước", nguồn tin cho biết thêm: "Sự tăng giá gần đây là do nhu cầu tái tích trữ và sự không chắc chắn về ArcelorMittal chuyển nhà máy Ilva ở Taranto, Italy."

Nhà máy Ilva là nhà sản xuất thép single-site lớn nhất châu Âu, sản xuất 3,8 triệu tấn thép thô mỗi năm.

"Một yếu tố cuối cùng giúp tăng giá là niềm tin cho rằng đáy của đà giảm giá đã đạt được do giá nguyên liệu thô tương đối cao," nguồn tin nói thêm.

Nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục thúc đẩy giá thép cây xuất khẩu cao hơn

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán xuất khẩu thép cây vào thứ Hai mặc dù nhu cầu tiếp tục kém, vì giá phế tiếp tục tăng, những người tham gia thị trường cho biết.

Định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 440 usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Hai, tăng 7,50 usd/tấn trong ngày, mức tăng trong ngày lớn nhất kể từ ngày 21 tháng 10.

“Ngay bây giờ, giá phế không ngừng lại, vì vậy chúng tôi phải tăng giá chào bán thép cây cao hơn,”, một nguồn tin nhà máy Iskenderun cho biết, trích dẫn một giá trị có thể giao dịch ở mức 440 usd/tấn FOB cho 10.000 tấn trở lên, và mức giá chào bán chính thức tại 450 usd/mt FOB Iskenderun.

Các chào giá bán chính thức của nhà máy Marmara đã được nghe ở mức 440 usd/tấn FOB và 450 usd/tấn FOB.

Theo một nguồn giao dịch, giá trị giao dịch đã được nghe thấy ở mức 440-445/ tấn FOB, trong khi nguồn tin giao dịch thứ hai cũng trích dẫn giá trị có thể giao dịch ở mức 440 usd/tấn FOB trở lên, với giá thấp hơn được coi là không khả thi.

“Giá cả đang tăng, nhưng không có sự quan tâm từ người mua tại thời điểm này, nhưng động lực tăng giá là có,” một nguồn giao dịch thứ ba cho biết.

Lợi nhuận sản xuất thép dài Thổ Nhĩ Kỳ - mức chênh lệch giữa thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ và phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ - đã tăng lên 147,50 usd/tấn vào thứ Hai, cao hơn 5usd/tấn trong ngày. Mức này đã tăng từ 140 usd/tấn ngày 4 tháng 12, vốn là giá chênh lệch thấp nhất kể từ ngày 7 tháng 2.

Mức chênh lệch hiện tại, chiếm tỷ lệ phế tích trữ đã mua trước đó và giá bán trong nước và phôi cao hơn một chút, vẫn thể hiện kịch bản thua lỗ đối với hầu hết các nhà máy và không bền vững trong trung hạn.

Định giá nhập khẩu phế HMS 1/2 (80:20) Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 292,50 usd/tấn CFR hôm thứ Hai, tăng 2,50 usd trong ngày.  

Giá HRC Mỹ giảm nhẹ

Giá cuộn cán nóng của Mỹ đã giảm nhẹ hôm thứ Hai trong bối cảnh một hỏi mua khối lượng lớn hơn nhưng các nhà máy vẫn tiếp tục đàm phán giá chào bán cao hơn.

Chỉ số HRC hàng ngày của Mỹ giảm nhẹ 1,75 usd/st còn 556 usd/st, trong khi chỉ số cuộn cán nguội hàng ngày không đổi ở mức 745,25 usd/st.

Một người mua đã đi khảo giá một khối lượng lớn hơn, vượt quá 1.000 tấn ngắn, đến ba nhà máy mini khác nhau. Mức giá thấp của giá chào là 540 usd/st hoặc 560 usd/st, tùy thuộc vào quá trình chuẩn hóa được sử dụng để loại bỏ các bổ sung đơn hàng. Một nhà máy mini thứ hai sẵn sàng chào bán tại 560 usd/st, trong khi nhà máy mini thứ ba ở mức 580 usd/st.

Nguồn tin bên mua cho biết có các ý định đưa đưa giá lên tới 600 đô la/st tùy thuộc vào các đơn đặt hàng vũng chắc. Có một chút phản đối trong mua hàng giao ngay trên hầu hết trên thị trường nhưng sự trì trệ này không ảnh hưởng đến thời gian giao hàng của nhà máy nên các nhà máy đang giữ giá cao hơn.

Bất chấp giá chào bán cao hơn, không có giao dịch được xác nhận nào được biết tại 580 usd/st trở lên.

Giá HRC của Mỹ đã biến động một chút kể từ thứ Tư tuần trước sau khi tăng 25,75 usd/st vào ngày 2-3 tháng 12, và thoái lui 6,50 usd/st kể từ ngày 4 tháng 12.

Thị trường CRC đã bị xáo trộn, theo một nguồn tin trung tâm dịch vụ. "Các nhà máy không thể đủ để di chuyển," ông nói thêm. Giá cả trong một phạm vi rộng với nguồn tin nói rằng ông có thể mua CRC giao ngay với mức chênh lệch giảm 20 usd/st so với giá hợp đồng HDG vốn đã bao gồm một chiết khấu.

Icdas Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép cây nội địa

Nhà sản xuất thép dài Icdas Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp tục tăng giá niêm yết trong nước vào ngày giao dịch đầu tiên trong tuần, trong bối cảnh giá phế tăng liên tục, nhu cầu nội địa tốt hơn so với xuất khẩu và sự sụt giảm giá trị t đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ so với đồng đô la Mỹ.

Định giá nhập khẩu phế HMS 1/2 (80:20) ở mức 292,50 usd/tấn CFR hôm thứ Hai, tăng 2,50 usd/tấn so với cuối tuần trước, trong khi giá phế tàu nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đạt 290 usd/tấn hôm thứ Hai cùng với mức tăng giá mới nhất này.

Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, mất khoảng 0,6% giá trị so với đồng đô la Mỹ trong ngày và bắt đầu giao dịch trong phạm vi 5,80-5,81 lira/1 usd vào chiều thứ Hai.

Icdas đã tăng giá niêm yết lên mức 3.040 lira/tấn xuất xưởng, bao gồm thuế giá trị gia tăng 18% (VAT), đối với thép cây 12-32 mm, tương đương mức xuất xưởng 440 usd/tấn, không bao gồm VAT.

Một số nhà sản xuất khác ở các khu vực khác nhau của Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán cùng loại thép cây cho thị trường nội địa ở mức 3030-3070 lira/tấn xuất xưởng vào thứ Hai, tương đương với 443-448 usd/tấn, không bao gồm 18% VAT hôm thứ Sáu. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã tăng giá chào bán xuất khẩu thép cây lên mức 440 - 440 usd/tấn FOB trong những ngày gần đây.

Các nhà tích trữ Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng giá chào bán thép cây của họ cho thị trường nội địa vào thứ Hai trong phạm vi 3000-3.050 lira/tấn, xuất kho tùy thuộc vào khu vực và trọng tải, trong bối cảnh đồng lira mất giá.

Giá phôi billet tại thị trường nội địa, trong khi đó, thường ở mức 415-425 usd/tấn xuất xưởng vào thứ Hai, tùy thuộc vào trọng tải và khu vực, sau khi giá bán của hai nhà sản xuất lớn trong khoảng 405 usd/tấn xuất xưởng vào đầu tuần trước . Chào giá phôi billet nhập khẩu từ khu vực CIS đã ở mức tương tự trên cơ sở CFR hôm thứ Hai.


 Chào giá bán tăng đẩy giá thép cây châu Á lên cao hơn

Giá thép cây châu Á tăng vào thứ Hai, khi chào giá cao hơn được nghe thấy ở thị trường khu vực Hồng Kông và Singapore.

S & P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 440 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế hôm thứ Hai, không thay đổi so với ngày thứ Sáu.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm được định giá ở mức 3.795 NDT/tấn (539 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, bao gồm thuế giá trị gia tăng 13%, tăng 25 NDT/tấn so với thứ Sáu. Những người trên thị trường đã thận trọng về việc tăng giá, một thương nhân tại Bắc Kinh cho biết.

Hợp đồng thép cây giao tháng 5 năm 2020 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải hôm thứ Sáu chốt với giá 3.511 NDT/tấn, tăng 74 NDT/tấn, tương đương 2,2%.

Tại Hồng Kông, nghe nói một chào giá ở mức 460 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế cho lô hàng của Nga giao vào tháng 2 năm 2020, hai nguồn tin cho biết. Mức giá này tương đương với 449- 451 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, phí vận ​​chuyển là 14 USD/tấn, sau khi chuẩn hóa chất lượng và số lượng theo tiêu chuẩn định giá của Platts. Các thương nhân nói rằng mức tồn kho quá cao và lô hàng sắp tới cũng quá nhiều, một người cho biết. Mặc dù đây là chào giá thấp nhất trên thị trường, nhưng người mua vẫn không quan tâm đến nó, hai nguồn tin thị trường cho biết.

Một chào giá vẫn ở mức 470 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giao vào tháng 2 năm 2020, một người cho biết. Đây là giá cao nhất trên thị trường, ông nói thêm.

Tại Singapore, thép cây Qatar giao tháng 2 đã được bán hết vào thứ Hai tuần này với một thỏa thuận được nghe nói ký kết với giá 448- 450 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết gần đây, một nhà sản xuất có trụ sở tại Singapore cho biết.

Một thương nhân khác ở miền đông Trung Quốc cũng nhắc lại thỏa thuận này. Cả hai nguồn tin đều nói thêm rằng lô hàng này được biết đến từ một thương nhân chứ không phải người mua, vì giá hỏi mua dưới 440 USD/tấn CFR Singapore trong thời điểm hiện tại.

Thỏa thuận này tương đương với 444- 448 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, phí vận chuyển là 20 USD/tấn và dung sai khối lượng 3% sau khi chuẩn hóa chất lượng và số lượng theo tiêu chuẩn định giá Platts.

Người mua ở Singapore cần bổ sung thêm hàng hóa để giao vào tháng Hai, nhà chế tạo cho biết. Tuy nhiên, họ khó có thể chấp nhận mức giá này vì giá bán trong nước chậm theo kịp đà tăng của giá nhập khẩu.

Platts định giá thép cây BS4449 Grade 500 đường kính 16-32 mm ở mức 445 USD/tấn CFR Đông Nam Á, tăng 6 USD/tấn.

Tâm lý tích cực ở Trung Quốc đẩy giá HRC Châu Á lên cao hơn

Giá giao ngay tại thị trường thép cuộn cán nóng châu Á nhích lên cao hơn vào thứ Hai, khi tâm lý thị trường ở Trung Quốc vẫn lạc quan nhờ thị trường trong nước vững mạnh, ngay cả khi các khu vực khác không có được sự hưng phấn như thị trường Trung Quốc và vẫn còn trì trệ.

S & P Global Platts định giá HRC SS400 dày 3 mm ở mức 461 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 2 USD/tấn so với thứ Sáu. Tính theo giá CFR Đông Nam Á, thép cuộn cùng loại được định giá ở mức 463 USD/tấn, cũng tăng 2 USD/tấn so với thứ Sáu.

Một số nhà máy Trung Quốc đã từ chối công bố chào giá mới, ngoại trừ Jiangsu Shagang, đã cập nhật chào giá cho lô hàng giao tháng 2 từ 465 USD/tấn FOB Trung Quốc vào tuần trước lên 470 USD/tấn hôm thứ Hai. Các nhà máy khác dự kiến ​​sẽ làm theo khi họ công bố chào giá chính thức vào thứ Ba, các nguồn tin thị trường cho biết, với các nguồn tin bên bán xác nhận rằng khả năng tăng 5 USD/tấn sắp xảy ra.

Mặc dù các nhà máy Trung Quốc được coi là không tích cực trong việc xuất khẩu trong những tuần gần đây, do nhu cầu trong nước mạnh và thị trường tương lai có xu hướng tăng, nhưng các nguồn tin chỉ ra rằng các nhà máy có lẽ đã không cắt giảm mức phân bổ xuất khẩu và tiếp tục thường xuyên nhận đặt hàng ở nước ngoài.

Nghe nói các nhà máy như Maanshan đã không còn phân bổ thép cho xuất khẩu cho tháng 1, tuần trước, đặt mua 20.000 tấn gồm SS400 và SAE1006 với giá 460-465 USD/tấn FOB Trung Quốc.

“Có vẻ như nhu cầu từ nước ngoài thậm chí còn tốt hơn 1-2 tháng trước”, một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết. “Lý do chính tôi nghĩ là vì chào giá từ Nga và Ấn Độ cũng tăng”.

Tại Thượng Hải, giá giao ngay của HRC Q235 5,5 mm ở mức 3.820 NDT/tấn (542,51 USD/tấn) xuất xưởng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, tăng 45 NDT/tấn từ thứ Sáu. Trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hợp đồng giao dịch tháng 1 chốt với giá 3.677 NDT/tấn, tăng 56 NDT/tấn so với thứ Sáu.

Platts định giá HRC SAE1006 ở mức 467 USD/tấn FOB Trung Quốc vào thứ Hai, không thay đổi so với thứ Sáu. Tính theo giá CFR Đông Nam Á, thép cuộn cùng loại được định giá ở mức 466 USD/tấn, cũng không thay đổi.

Tại Việt Nam, trong khi một số chào giá từ các nhà máy ở Đài Loan, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ đã được nghe thấy, nhưng giá hỏi mua vẫn còn rất ít mặc dù một số người trên thị trường tin rằng có thể ký thỏa thuận với giá 470 USD/tấn trong thời gian tới.

“Các thị trường đã nghỉ xả hơi”, một thương nhân ở Singapore cho biết. “Người mua ở Việt Nam đã mua rất nhiều”.

Trong khi đó, moi người trên thị trường đang chờ thông báo về giá của nhà sản xuất HRC Formosa Hà Tĩnh. Nhà máy này dự kiến ​​sẽ công bố các chào giá mới vào thứ Sáu cho hàng giao tháng 2, nhà máy xác nhận khả năng tăng 10 USD/tấn cho SAE1006 từ mức 470 USD/tấn của tháng trước.