Giá phế tăng vọt tác động lên thị trường thép cây EU
Giá thép cây và cuộn trơn châu Âu tiếp tục tăng trong tuần trước do giá phế tăng vọt.
Chi phí phế tăng cao khiến thép cây tăng khoảng 40-50euro/tấn kể từ đầu tháng 03, và đà tăng này vẫn đang tiếp tục. Tuy nhiên một vài câu hỏi đang được đặt ra cho độ bền vững của xu hướng tăng này. Không có lí do chính thức cho việc tăng giá này. Các nhà cung cấp thép cây chỉ đang ước tính theo phế và thị trường Thổ Nhĩ Kỳ,” một người mua từ Pháp nói. “Người dùng cuối đang không có bất kỳ vị thế tài chính nào để ủng hộ mức tăng này.”
Tại Đức, Hà Lan và Pháp các nhà máy đang chào giá cơ bản 120-130euro/tấn vận chuyển đối với thép cây và 360-370euro/tấn DDP cho cuộn trơn dạng lưới. Sản xuất ở mức thấp trong suốt Phục Sinh có thể đang hỗ trợ nhà máy áp dụng việc tăng giá.
Cũng có những đồn đoán về giá phế tháng này có thể tăng 20-30euro/tấn so với tháng 03, giá chốt sẽ được thực hiện trong tuần này.
Tại Nam Âu, nhà máy đang chào giá khoảng 380euro/tấn từ thị trường Algeria. Phía nhà máy đang ra sức tăng giá và bán nhiều nhất có thể trước Ramadan vào tháng 06. Đối với những đơn hàng vận chuyển giữa tháng 05, sẽ cập cảng trước Ramadan, trong khi đơn hàng tháng 04 đã hết.
Do xuất khẩu tốt, đơn đặt hàng và giá nguyên vật liệu tăng, nhà máy Italia cũng tăng giá bán cho thị trường nội địa thêm khoảng 30euro/tấn, với giá chào gần mức 100euro/at61n cơ bản xuất xưởng và cuộn trơn ở mức 355-360euro/tấn xuất xưởng giao ngay.
Định giá ngày của Platt cho thép cây ở mức 375-385euro/tấn xuất xưởng tây bắc châu Âu thứ Sáu tuần trước.
Thép tấm EU duy trì ổn định
Giá tấm dày châu Âu hầu như duy trì ổn định tại mức cao trong tuần trước mặc dù một vài nhà cung cấp đang thúc đẩy giá tăng hơn nữa.
Nguồn cung phôi tấm thiếu hụt đang khiến thời gian giao hàng tấm dày kéo dài hơn, cũng như đóng vai trò giúp các nhà máy kiểm soát được mục tiêu tăng giá hơn nữa. Một nhà cán lại cho biết nếu muốn mua S235 hoặc S355 tiêu chuẩn thông thường thì thời gian gian hàng tốt nhất của nhà máy này là tháng 07 mà thậm chí vẫn chưa biết giá phôi tấm giao tháng 06.
Sau đà phục hồi tháng 03, nhà máy thép tấm đã tăng tổng cộng 50euro/tấn cho thép tấm thương mại. Giá mới nhất của S235 đã trên 400euro/tấn xuất xưởng từ mức khoảng 350euro/tấn hồi tháng 02. Một nhà phân phối Đức đã cho hay giá thay thế ở mức 440euro/tấn vận chuyển, tương đương mức 420-425euro/tấn xuất xưởng.
Một nhà sản xuất đang thúc đẩy giá tăng thêm 25-30euro/tấn, mục tiêu mức 500euro/tấn cho tấm thương mại, một nhà phân phối ở Iberian Peninsula cho biết.
Một nhà tích trữ Benelux cho biết thép tấm đóng tàu với độ dày 8-14mm đã được bán bởi một nhà sản xuất địa phương tại mức 450euro/tấn vận chuyển.
Tại Italy chào giá chốt ở mức 400-420euro/tấn xuất xưởng, và đang được thị trường chấp nhận một phần, nguồn tin cho biết. Nhập khẩu từ Ukraina, ở mức 390-395euro/tấn CIF, người mua cho biết; một nhà máy ở Ukraina bán ở mức 400euro/tấn CIF/DAF.
Platts định giá tấm dày nội địa ở mức 417.5euro/tấn xuất xưởng Ruhr, không đổi so với hôm trước đó. Định giá nhập khẩu tăng 5euro/tấn lên mức 390euro/tấn CIF Antwerp.
Định giá HRC EU
Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 365-375euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.
ArcelorMittal đã tăng giá chào bán lên bằng mức như Tata Steel.
Một người mua Đức nghe được chào giá ở mức cao nhất là 390euro/tấn nhưng một người mua Benelux nói rằng thị trường vẫn ở mức giá 365euro/tấn dựa trên chào giá từ nhà máy Bắc Âu là 370-375euro/tấn.
Nhập khẩu vẫn khan hiếm với Platts định giá tại mức 370-380euro/tấn CIF Antwerp. Chào giá của Iran có tính cạnh tranh nhất, trong khi của Trung Quốc kém nhất, được nghe nói ở mức 390euro/tấn CIF.
Gía HRC và CRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng hôm thứ Sáu trong bối cảnh giá phôi tấm và phế nhập khẩu tăng mạnh, cũng như chào giá nhập khẩu cao hơn.
Ít nhất một trong những nhà máy lớn của Thổ Nhĩ Kỳ chào giá ở mức 490-49usd/tấn xuất xưởng cho HRC hôm thứ Sáu, tăng 10-15usd/tấn đầu tuần. Các nhà cung cấp khác tăng giá chào một khoản tương ứng, phù hợp với chào giá nhập khẩu cao hơn, ở mức cao 430-440usd/tấn CFR. Mức giá này tương đương giá chào HRC475-495usd/tấn xuất xưởng tại thị trường trong nước Thứ Sáu, trong khi chào giá nhập khẩu khoảng 410-440usd/tấn CFR.
Chào giá CRC của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước cũng tăng mạnh lên 550-570usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu và nhà sản xuất cũng ngừng chiết khấu đáng kể về chi phí đầu vào tăng lên. "Giá nguyên vật liệu tăng cao tiếp tục đẩy giá lên cao hơn nữa. Các mức giá thấp nhất trong phạm vi này là giá thanh toán tiền mặt và giao tháng 06", một trung tâm dịch vụ cho biết.
Thị trường HRC và CRC trong nước nhìn chugn khá trầm lắng trong tuần do người mua ra khỏi thị trường với kỳ vọng sẽ có một số điều chỉnh giá. Tuy nhiên, sự tăng vọt mới nhất – đang trái với kỳ vọng thị trường - có thể buộc người mua phải trì hoãn để không bị ảnh hưởng bởi tiếp tục tăng, một số nguồn tin cho biết. Tuy nhiên, những người khác tin rằng người mua sẽ tiếp tục chống lại giá chào mới ít nhất là trong ngắn hạn, vì mức giá này không được hỗ trợ bởi đủ nhu cầu tiêu thụ của người dùng cuối.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 432usd/tấn hôm thứ Sáu, tăng 2usd/tấn so với thứ Năm.
Chào giá được nghe nói tăng lên đáng kể nhưng không nhận được quan tâm của người mua.
Một người mua UAE cho biết chào giá đến nước này hôm thứ sáu là 450usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (443usd/tấn FOB trọng lượng thực tế) và giá mua sẽ tầm 440usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (432.5usd/tấn FOB trọng lượng thực tế.)
Một thương nhân cho biết chào giá của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên mức 460usd/tấn FOB. Chào giá từ nhàáy được nghe nói tăng lên mức 450usd/tấn từ những nguồn tin khác, mặc dù không có giá bán tại mức trên 430usd/tấn.
Một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ khác cho biết chào giá là 430-435usd/tấn FOB.
Các nhà máy dồn sự chú ý tới quặng tồn kho tại các cảng với giá rẻ
Giá quặng sắt giao ngay đã suy yếu trong tuần trước khi các nhà máy chú ý đến lượng hàng tồn kho ở cảng với giá cạnh tranh hơn.
Platts 62% Fe IODEX được định giá 53,6 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc hôm 8/4, giảm 1,5 USD/dmt so với tuần trước. Giá tham khảo của TSI cho quặng cám 62% giảm 70 cents so với tuần trước còn 53,3 USD/dmt CFR.
Tồn kho tại cảng tiếp tục tăng so với tuần trước đó, với khối lượng tại các cảng lớn của Trung Quốc ước đạt 100,72 triệu tấn hôm thứ Sáu, tăng 1,29 triệu tấn so với thứ Ba. Trong khi tồn kho tại cảng đang gia tăng thì giá giao dịch lại giảm, cho thấy nhu cầu trì trệ từ các nhà máy trong bối cảnh tồn kho tăng.
“Việc kinh doanh quặng tồn kho tại cảng của chúng tôi gần đây đã rất chậm”, một thương nhân ở Hà Bắc cho biết. Một vụ mùa bội thu của quặng được cho là sẽ đáp tới Trung Quốc trong tháng 5, điều này cũng làm hạn chế nhu cầu cho quặng nhập bằng đường biển.
Ngay cả với các nhà máy mà muốn mua quặng nhập khẩu giao ngay thì cũng nhận thấy nhiều rủi ro hơn do thời gian giao hàng lâu hơn và thị trường biến động- ngoài ra tín dụng cũng là một vấn đề. “Các ngân hàng hiện nay đang kiểm soát tín dụng của các nhà máy thép. Thông thường, chỉ mất vài ngày nhưng bây giờ phải mất hơn 1 tuần”, một nhà sản xuất thép ở Sơn Đông cho biết, cho thấy các ngân hàng đang gắt gao hơn về chuyện cho vay tới ngành thép.
Mặc dù tâm trạng khá bi quan về quặng sắt nhưng hầu hết các nguồn tin đều không nghĩ là đà giảm sẽ kéo dài. “Các nhà máy Trung Quốc đang kiếm được ít nhất 150-200 NDT trên mỗi tấn thép thô sản xuất ra, có khả năng nhu cầu quặng sắt nhập khẩu sẽ phục hồi và giá sẽ giảm với thời gian ít nhất trong ngắn hạn”.
“Nguồn cung hiện đang dồi dào trên thị trường và sẽ gây sức ép lên giá quặng sắt trong tương lai. Nhưng nếu như giá thép đi lên thì quặng sắt cũng sẽ thẳng tiến”.
Phôi thanh và phế tăng vọt kéo giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đi lên
Icdas, một trong các nhà sản xuất thép dài lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng giá niêm yết thép cây hơn nữa hôm thứ Sáu, lần thứ ba trong vòng một tuần, phản ánh xu hướng tăng liên tục của giá phế và phôi thanh nhập khẩu. Chào giá xuất khẩu cũng tiếp tục tăng lên nhanh chóng.
Nhà sản xuất thép dài tổng hợp chính của nước này, Kardemir, đã chốt bán thép cây và phôi thanh hôm 04/04, cũng dự kiến sẽ tái mở bán với giá cao hơn trong những ngày tới, nguồn tin cho biết.
Icdas tăng giá bán thép cây 12-32mm thêm 40TRY(14usd)/tấn lên mức 1.530TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul, và 1.510 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga hôm thứ Sáu - tương đương với 454usd/tấn và 447usd/tấn tương ứng, không bao gồm 18% VAT. Giá của công ty này cho thép cây 10mm đã tăng lên mức 1.540TRY/tấn xuất xưởng, trong khi thép cây 8mm ở mức 1.550 TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul. Công ty cũng tăng giá thép cuộn trơn 7-8.5mm một khoảng tương tự lên mức 1.550-1.580TRY/tấn xuất xưởng hôm 04/06, bao gồm cả thuế GTGT.
Giá phôi thanh trong nước và nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục xu hướng đi lên đáng kể trong tuần trước. Giá phôi thanhtrong nước trong khoảng 380-390usd/tấn xuất xưởng, trong khi chào giá phôi thanh từ CIS tăng hơn nữa lên mức 360-365usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Chào giá phôi thanh Trung Quốc cũng đạt 350-355usd/tấn CFR vào cuối tuần trước, các nguồntin thương mại trong nước cho biết.
Giá phế nhập khẩu HMS 1 & 2 80:20 cũng tăng mạnh lên mức cao 260usd/tấn CFR tuần trước theo giá mua mới nhất của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi giá phế trong nước cũng tiếp tục tăng đáng kể.
Một số nguồn tin thị trường dự đoán giá phôi thanh sẽ cân bằng ở mức này, nhưng đà tăng của giá phế nhập khẩu có thể tiếp tục, như tồn kho tích trữ phế một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn thấp. "Chúng ta có thể nhìn thấy mức 280usd/tấn CFR trong những tuần tới", một nguồn tin cho biết.
Trong bối cảnh giá thép bán thành phẩm và nguyên vật liệu tiếp tục mạnh mẽ, giá xuất khẩu của phía nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và giá xuất kho thép cây tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục tăng cường trong tuần trước. Giá bán phổ biến của thép cây 8-12mm của đại lý trong khu vực Marmara đã lên đến khoảng 1.510-1.540TRY/tấn xuất xưởng (bao gồm 18% VAT) hôm thứ Sáu, trong khi chào giá xuất khẩu của các nhà máy đạt khoảng 430-435usd/tấn FOB thứ Sáu.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ nhìn chung suy yếu tại các thị trường xuất khẩu sau đà tăng vọt khổng lồ của giá chào thép cây. "Giá thép cây tăng nhanh chóng, song song với giá nguyên vật liệu và thép bán thành phẩm. Vì vậy, nhu cầu tiêu thụ suy yếu là hoàn toàn tự nhiên. Chúng ta có thể thấy một số điều chỉnh giá nhẹ trong những ngày tới, nhưng xu hướng nhìn chung là tăng", giám đốc xuất khẩu của nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
Phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng song song với hàng nhập khẩu
Giá mua phế tàu tính bằng dollar, và phế DKP tính bằng lira của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng vọt thứ Sáu tuần trước.
Phế nấu chảy từ tàu cũ đã bắt đầu được báo giá đến nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) trong phạm vi 245-250usd/tấn hôm thứ ba, tăng 10usd/tấn so với đầu tuần, trong khi giá phế nhập khẩu mạnh mẽ hơn ở mức cao 260usd/tấn CFR theo các lô hàng thu mua mới nhất của phế HMS 1&2 80:20 của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.
Một số nhà sản xuất thép hàng đầu của Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục tăng giá mua nhiều lần trong tuần trước. Một trong những nhà sản xuất thép EAF lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu - cùng với nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik – đã nâng giá mua DKP lần thứ hai trong tuần hôm thứ Sáu, thêm 30 TRY/tấn (10,5usd/tấn) lên mức 710 TRY (249usd)/tấn. Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn nhất, Kardemir, cũng tăng giá mua đối với DKP lên mức 750TRY (263usd)/tấn.
Nhà máy thép tích hợp Eregli của Erdemir, ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ, và Isdemir, nhà máy của tập đoàn này ở Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, đều tăng giá mua DKP lần thứ hai trong một tuần hôm thứ Năm thêm 55TRY (19usd)/tấn lên mức 745TRY (262usd) tấn.
Giá mua phế DKP trong nước tại các nhà sản xuất thép EAF khác trong phạm vi 710-740TRY(249-260usd)/tấn vào thứ Sáu, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu các nhà máy.
Phôi tấm CIS tăng do nguồn cung thắt chặt
Giá phôi tấm CIS tiếp tục tăng nhanh trong tuần trước do hoạt động thu mua cao và giá cả sản phẩm thép dẹt mạnh mẽ hơn, được hỗ trợ bởi sự vắng mặt của Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu.
Đầu tuần trước Platts nghe được hai đơn hàng bán đến châu Âu của phôi tấm CIS là 315usd/tấn và 320usd/tấn FOB. Đến cuối tuần mức giá trên có vẻ đã không còn xuất hiện, với hoạt động mua bán ở Italia được nghe nói tại mức 345usd/tấn CIF, tương đương với 330usd/tấn FOB Biển Đen.
Người mua phôi tấm ở mức 315usd/tấn và 320usd/tấn khẳng định rằng hiện rất khó khăn để đảm bảo các giao dịch này, và giá cả kể từ lúc ấy đã tăng lên đến 330usd/tấn FOB Biển Đen.
Thứ Sáu, 08/04, Platts tăng định giá phôi tấm FOB Biển Đen đến 328-333usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 30usd/tấn.
Phôi tấm CIS tăng do nguồn cung thắt chặt
Giá phôi tấm CIS tiếp tục tăng nhanh trong tuần trước do hoạt động thu mua cao và giá cả sản phẩm thép dẹt mạnh mẽ hơn, được hỗ trợ bởi sự vắng mặt của Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu.
Đầu tuần trước Platts nghe được hai đơn hàng bán đến châu Âu của phôi tấm CIS là 315usd/tấn và 320usd/tấn FOB. Đến cuối tuần mức giá trên có vẻ đã không còn xuất hiện, với hoạt động mua bán ở Italia được nghe nói tại mức 345usd/tấn CIF, tương đương với 330usd/tấn FOB Biển Đen.
Người mua phôi tấm ở mức 315usd/tấn và 320usd/tấn khẳng định rằng hiện rất khó khăn để đảm bảo các giao dịch này, và giá cả kể từ lúc ấy đã tăng lên đến 330usd/tấn FOB Biển Đen.
Thứ Sáu, 08/04, Platts tăng định giá phôi tấm FOB Biển Đen đến 328-333usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 30usd/tấn.
Giá thép cây Moscow tăng hơn 30usd/tấn
Những nhà sản xuất thép dài của Nga đang tăng giá bán cho sản lượng thép cây tháng 04 một khoảng tương tự 10% mức tăng kể từ cuối tháng 03, do giá xuất khẩu thép cây và phôi thanh tăng.
Phía nhà máy đã tăng 10% giá vào cuối thang 03 nhưng hiện tại muốn tăng gấp đôi lên 20% so tỉ lệ cung-cầu được cải thiện. Mặc dù nhu cầu tiêu thụ trong nước đang tăng trưởng chậm chạp, nhưng với thực tế là các nhà máy được duy trì sản xuất ở mức thấp cũng như đang xuất khẩu nhiều nhất có thể nhà sản xuất có thể minh chứng cho sự thiếu hụt thép cây trong nước bằng cách so sánh.
Điều này được hiểu rằng phần lớn các nhà máy đã thành công trong việc nâng giá cho sản lượng thép cây tháng 04 lên mức cao là 27.600 Rúp (406usd)/tấn đối với thép cây 12mm và 27.200 Rúp (400usd)/tấn đối với thép cây 14mm, giao đến Moscow. Nếu không có 18% thuế VAT, giá trên tương đương với 23.390 Rúp (344usd)/tấn và 23.050 Rúp (339usd)/tấn tương ứng, đánh dấu mức tăng một 2.200 Rúp/tấn so với tuần trước đó.
Thứ Sáu 08/04, Platts tăng định giá thép cây 12-14mm của Nga lên mức 23.050-23.390 Rúp (339-344usd)/tấn CPT Moscow, đánh dấu mức tăng 2.000 Rúp (32usd)/tấn so với tuần trước đó.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá xuất khẩu ngày của phôi thanh CIS ở mức 350usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu tuần trước, tăng 5usd.
Các nguồn tin cho biết một vài giao dịch giao vận chuyển tháng 05 đến Thổ Nhĩ Kỳ, với giá trong phạm vi 366-375usd/tấn CFR Iskenderun, tương đương 345-358usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov, tùy thuộc vào từng loại.
Một lô 15 ngàn tấn phôi thanh giao ngay được bán ở mức 366usd/tấn CFR CFR Iskenderun. Một thương nhân cho biết hai giao dịch xa hơn được kí kết ở mức lần lượt là 370usd/tấn và 375usd/tấn CFR Iskenderun, tấn cả đều đến từ những nhà cung cấp Ukraina cho hàng giao giữa tháng 05.
Platts tăng định giá lên mức 350usd/tấn FOB phản ánh mức giá giao dịch cao hơn được xác nhận bởi các thành phần tham gia thị trường.
Người mua Mỹ: Giá sẽ tăng đến mức nào?
Người mua tấm mỏng Mỹ cuối tuần trước đã dự đoán mức giá nhà máy cao hơn nhưng vẫn không chắc cvề mức giá chào mới mà họ sẽ nhận được trong tuần này. Việc NLMK đã thông báo mức tăng giá 40usd/tấn ngắn cho tất cả các sản phẩm tấm mỏng chưa được các nhà sản xuất đối thủ chính thức thực hiện theo vào cuối tuần, nhưng ít nhất là một số loại thép được dự đoán sẽ được thông báo.
Trong khi người mua đang được chờ đợi một số nhà máy mini mở bán HRC tháng 05, dự báo mức giá HRC thấp nhất sẽ là 500usd/tấn ngắn. trung tâm dịch vụ cho biết đã nghe một nhà máy mini đã tăng giá chào HRC giá lên 500usd/tấn ngắn, trong khi một nhà máy mini thứ hai được nghe là chào giá cho sản lượng giới hạn tháng 05 ở mức 510usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Mặc dù giá chào tăng lên mức cao hơn, Platts không thể xác nhận bất kỳ giao dịch ở mức giá cao hơn. Platts duy trì định giá HRC hàng ngày với HRC và CRC lần lượt ở mức 460-480usd/tấn ngắn và 620-640usd/tấn ngắn. Cả hai mức giá này đều được chuẩn hóa theo giá cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một trung tâm dịch vụ thứ hai khẳng định đã nghe được chào giá mới của HRC từ một nhà máy mini là 510usd/tấn ngắn nhưng vẫn chưa nghe được báo giá mới từ những nhà máy mini khác - các nhà sản xuất thép bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi việc giá phế tăng. Với nguồn cung hạn chế sẵn các nhà máy mini sẽ đạt được mức 510usd/tấn ngắn cho đơn hàng mới, hoặc ít nhất là 500usd/tấn ngắn.
Một trung tâm dịch vụ thứ tư cho biết giá HRC rẻ nhất hiện có tại thị trường Mỹ là 48usd/tấn ngắn, xuất xưởng, cuối tuần trước.
Chào giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đến Mỹ tiếp tục tăng
Giá thép cây nhập khẩu vào Mỹ tiếp tục tăng vào cuối tuần trước do chào giá của Thổ Nhĩ Kỳ tăng vọt trong những ngày gần đây.
Chào giá xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng vọt, và không có tín hiệu cho thấy sẽ chậm lại. Một loạt các nhà sản xuất thép dài lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá niêm yết thép cây xuất khẩu và thép cây nội địa trong tuần trước, tiếp tục phản ánh xu hướng đi lên của giá phế và giá phôi thanh nhập khẩu.
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 432usd/tấn hôm thứ sáu, tăng 32usd/tấn so với mức giá hôm thứ Hai.
Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, đã chốt bán thép cây và phôi thanh hôm 04/04, có thể sẽ tái mở bán với mức giá cao hơn trong vài ngày tới.
Một thương nhân dưa ra mức giá xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Mexico là trên 440usd/tấn CFR (404usd/tấn ngắn CIF) trong khi thương nhân thứ hai cho biết giá ở mức cao 460usd/tấn CFR (423usd/tấn CIF) đã được báo giá hôm thứ Sáu.
Platts tăng định giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ lên mức 404-413usd/tấn CIF Houston hôm thứ Sáu, tăng từ mức 386-395usd/tấn ngắn CIF.
Thương nhân thứ hai nói rằng với mức giá hiện nay thì người này sẽ chỉ mua khi đã có đầu ra. “Tôi sẽ không mua ở mức giá 460usd/tấn CFR chỉ để tích trữ trong kho.”
Giá phôi thanh Trung Quốc tiếp tục đi lên ở thị trường Đông Á
Giá phôi thanh Trung Quốc tới thị trường Đông Á tiếp tục tăng trong tuần trước. Mặc dù phôi thanh Trung Quốc liên tục lên giá nhưng các nhà nhập khẩu vẫn ưa dùng loại phôi này vì đây là sự lựa chọn có mức giá thấp nhất trên thị trường hiện nay.
Các giao dịch giao tháng 5 cho phôi thép Q235 và Q275 120mm từ Trung Quốc được chốt hồi cuối tuần trước có giá 345 USD/tấn CFR Manila. Chào giá cho phôi thép Q275 phổ biến là 350-355 USD/tấn CFR Manila vì vậy người mua cho rằng giá đặt hàng này là hấp dẫn.
Giá tăng cho thấy có sự thiếu hụt nguồn cung ở Manila, và các thị trường khác ở khu vực này đang đưa ra giá mua 330-340 USD/tấn CFR cho phôi loại 130 hay 150 mm. Chào giá cho phôi Q235 130mm đang phổ biến ở mức 355 USD/tấn CFR nhưng không có giao dịch nào.
Nhưng một thương nhân ở Manila cho biết ông bị bối rối về mức giá cao như vậy tới Philippines, bởi vì ông không nhìn thấy bất cứ sự phục hồi song song nào về phía nhu cầu. Phí vận chuyển từ Trung Quốc tới Manila là cao hơn khoảng 5-8 USD/tấn so với những cảng đến khác ở Đông Nam Á vì các tàu yêu cầu thời gian chờ đợi khoảng 3 tuần để cập bến do ùn tắc ở cảng Manila.
Một người khác cho biết thị trường phôi thanh hiện nay là không quá sốt như tháng trước. “Nhiều người đã được yểm hộ. Nhu cầu ổn định”.
Hôm 8/4, Platts đã nâng định giá phôi thanh 120/130mm của Đông Á lên 335-345 USD/tấn CFR, từ mức 325-335 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức trung bình 340 USD/tấn là cao hơn 10 USD/tấn.
Trong khi đó hôm thứ Sáu, các nhà máy ở thành phố Đường Sơn đã giữ giá niêm yết cho phôi thép không đổi ở ngày làm việc thứ ba liên tiếp. Vào cuối ngày thứ Sáu, giá phôi thanh ở Đường Sơn là 2.080 NDT/tấn (321 USD/tấn), cao hơn tuần trước 70 NDT/tấn (11 USD/tấn). Các nhà máy đã bắt đầu nâng giá niêm yết cho phôi thanh hôm 31/3 và như vậy tổng mức tăng đã lên 100 NDT/tấn so với 1.980 NDT/tấn của ngày 30/3.
HRC Châu Á vụt tăng do thiếu nguồn cung, thị trường Trung Quốc phục hồi mạnh
Giá HRC giao ngay ở Châu Á lại tăng trong ngày thứ Sau do thiếu nguồn cung và giá ở thị trường Trung Quốc nhảy vọt.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 385-390 USD/tấn, mức trung bình 387,5 USD/tấn, tăng 10 USD/tấn so với ngày trước đó, tương đương với 393-398 USD/tấn CFR Đông Á, cao hơn tuần trước 14 USD/tấn. HRC Q235 5.5mm được định giá 2630-2650 NDT/tấn (406-409 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, mức trung bình 2.640 NDT/tấn, tăng 50 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy ở miền bắc đã bán khoảng 20.000 tấn HRC SS400 với giá 400 USD/tấn FOB giao cuối tháng 5. Hai thương nhân cho biết khối lượng có thể sẽ không quá lớn và người mua là từ Pakistan. Tuy nhiên, hầu hết những người mua ở nước ngoài đều không thể chấp nhận mức giá trên 385 USD/tấn FOB, vì vậy 400 USD/tấn FOB là không thể lặp lại.
Một số giao dịch với tổng khối lượng 30.000 tấn, HRC SS400 được sản xuất bởi một nhà máy ở miền đông được chốt với giá 387-390 USD/tấn FOB hôm thứ Năm để giao cuối tháng 5. Các lô hàng này có thể đã được bán bởi các thương nhân đánh cược giá lên.
Không ai sẵn sàng bán với giá dưới 390 USD/tấn FOB cho thép cuộn cùng loại bởi vì việc có được thép từ các nhà máy Trung Quốc là rất khó khăn. “Chúng tôi đang nỗ lực hết sức để sản xuất CRC, vì vậy không có chào giá nào cho HRC là hấp dẫn”, nguồn tin từ nhà máy Tangshan Iron & Steel ở miền bắc Trung Quốc.
Đối với thép cuộn SAE1006 2.0mm, các thương nhân đã chào bán thép của nhà máy Benxi Iron & Steel với giá 420-425 USD/tấn CFR Việt Nam. Giá mua lý tưởng của bà là dưới 410 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá phế tuần: Giá Thổ Nhĩ Kỳ tăng vọt
Giá phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đã ở mức cao hơn trong tuần trước, do chào giá thép cây tại thị trường nội địa và xuất khẩu tăng vọt, cũng như nguồn cung phế giảm.
Định giá của Platts tăng hơn 25usd/tấn trong suốt tuần, chốt ở mức 265usd/tấn CFR hôm thứ Sáu tuần trước. Giá tham khảo của The Steel Index cho phế nhập khẩu 80:20 của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 21usd/tấn từ mức thứ Sáu tuần truốc đó chốt mức tuần ở 260usd/tấn CFR Iskenderun.
Giá phế nội địa Mỹ tăng khoảng 50usd/tấn dài, vì vậy các thương nhân có thể nhắm mục tiêu thị trường trong nước hơn là thị trường xuất khẩu. Trong khi đó các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cạnh tranh với những người mua đến từ Ấn Độ, Viêt Nam và những nơi khác, đều đang chấp nhận những mức giá rất cạnh tranh để có thể bảo đảm được nguồn nguyên liệu sản xuất – đà tăng gần đây của phôi thanh Trung Quốc có nghĩa là nguyên liệu này không phải là một sự thay thế kinh tế đối với các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, với thời gian giao hàng dài hơn.
Thị trường nhập khẩu Đông Á cho phế nấu chảy lô rời và phế Nhật Bản cũng mạnh lên trpng tuần trước, do nhu cầu tiêu thụ tăng lên ở Hàn Quốc và Việt Nam. Một lô phế HMS 80:20 từ Australia nghe nói được mua trong tuần kết thúc ngày 28/03 bởi một nhà sản xuất thép dẹt Thái Lan ở mức 245usd/tấn CFR. Thứ Tư tuần trước, các thương nhân cho biết nghe được tin Huyndai Steel của Hàn Quốc đã đặt mua phế lô rời từ Mỹ ở mức giá 253usd/tấn CFR cho HMS I. Nhưng các thương nhân cũng nói rằng đây chỉ là tin đồn do mức giá này cao hơn nhiều so với gía mua HMS I là 235usd/tấn CFR của tuần trước đó.
Platts định giá phế rời HMS I/II 80:20 Đông Á ở mức 240-245usd/tấn CFR hôm thứ Tư, tăng từ mức của tuần trước đó là 235-240usd/tấn CFR.
Hôm thứ Tư, Hyundai Steel được các nguồn tin giao dịch Nhật Bản và Hàn Quốc cho biết đang chốt giá mua phế H2 của Nhật Bản ở mức 22.000 Yên/tấn FOB (199usd/tấn), không đổi từ mức giá mua của tuần trước đó. Platts định giá tuần cho phế H2 ở mức 22.000-22.500 Yên/tấn FOB vịnh Tokyo, tăng từ mức định giá tuần trước là 22.000 Yên/tấn FOB. Giá bình quân là 22.250 Yên/tấn FOB tăng 250 Yên/tấn từ tuần trước.
Giá phế nội địa Nhật Bản cũng tăng trong tuần trước. Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy thép mini lớn nhất Nhật Bản, đã tăng giá mua phế lần thứ hai ngày 02/04 và 06/04 – mức tăng giá của nhà máy này trong suốt tuần đầu tiên của tháng 04 là 1.500-2.000 Yên/tấn.
Tokyo Steel đang mua H2 ở mức 20.500 Yên/tấn cho xưởng sản xuất ở Utsunomiya, phía bắc Tokyo. Các thương nhân Nhật Bản đang trả 20.000 Yên/tấn FAS để mua H2 màng đi xuất khẩu tại khu vực vịnh Tokyo, tăng 500-1.000 Yên/tấn từ mức 1 tuần trước đó.