Giá quặng chrome nhập khẩu vào Trung Quốc không đổi do giao dịch trầm lắng
Platts định giá giao ngay cho quặng chrome Nam Phi (48-52% Cr) là 77-79 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu, không đổi so với tuần trước đó.
Không có giao dịch hay chào giá nào có thể được xác nhận trong tuần trước nhưng các nguồn tin xác định mức giá trên là có thể giao dịch.
Một nhà sản xuất Nam Phi cho biết khách hàng của ông đang tìm mua với giá 77 cents/lb CIF nhưng ông đang cố gắng bán cao hơn mức này và do đó không có giao dịch nào được thực hiện.
Nhiều giao dịch nhập khẩu hơn có lẽ sẽ diễn ra trong tháng tới. Giá điện vào mùa đông ở Nam Phi sẽ lập đỉnh bắt đầu vào tháng 07 và 08 vì vậy các khách hàng có lẽ muốn đặt hàng để vận chuyển vào tháng 05 hay 06.
Các nhà sản xuất Nam Phi trước giờ thường giảm sản lượng khi giá điện tăng vào mùa đông.
Gía phế Đông Nam Mỹ vượt trội so với các khu vực khác
Do các lo âu về nguồn cung phế vụn thắt chặt cộng với tiêu thụ bình ổn từ các nhà máy thép tấm và thép dài, giá phế Đông Nam Mỹ đã tăng cao hơn so với các khu vực khác trong giai đoạn thu mua phế tháng năm.
Gía phế đi từ bình ổn tới tăng 15 USD/tấn tại Đông Nam do các nhà máy đang tìm kiếm nguồn hàng trong tình trạng thiếu hụt. Nhiều nhà máy đã trở lại thị trường Midwest, chủ yếu là Chicago để mua phế.
Gía phế vụn Southeast đạt mức cao 295 USD/tấn giao tới nhà máy. Trong vài trường hợp, giá đạt mức cao 300 USD/tấn. Hầu hết các nhà máy trong khu vực mua nhiều phế vụn tại mức 275-285 USD/tấn giao tới nhà máy.
Khác với thị trường Midwest, nơi mà vài nhà máy nỗ lực mua phế tại giá thấp hơn, các thương nhân Southeast không gặp áp lực trả giá.
Hầu hết các thương nhân cho hay không có đủ phế cung cấp cho các đơn hàng thnags 4 do dòng chảy chậm.
Xuất khẩu mạnh cũng hỗ trợ thị trường do các thương nhân có thể mua phế tại mức giá 265 USD/tấn FAS cảng Savannah đối với phế vụn khối lượng nhỏ. Các nhà buôn phế Northeast đang bán phế khối lượng nhỏ tới cảng tại mức 265-270 USD/tấn FAS.
Gía phế vụn vẫn bình ổn tại Northeast và Midwest tại mức 260-265 USD/tấn giao tới nhà máy.
Gía phế khối lượng nhỏ xuất khẩu sang Đông Á bình ổn
Gía phế khối lượng nhỏ Đài Loan nhập khẩu vào Mỹ vẫn bình ổn trong tuần này tại mức 220-223 USD/tấn CFR Đài Loan. Tuy nhiên, có nguồn tin cho rằng giá chào bán đã tăng lên mức 225-228 USD/tấn và không có đơn hàng nào được chốt ở mức này.
Platts cũng duy trì giá phế HMS xuất khẩu Bờ Tây Mỹ tại mức 205 USD/tấn FAS cảng LA.
Gía phế khối lượng nhỏ nhập khẩu vào Đài Loan vẫn bình ổn mặc dù nhu cầu tiêu thụ tại Đài Loan giảm do giá thép cây giảm.
Đối mặt với nhu cầu tiêu thụ phế khối lượng lớn suy yếu từ Đông Á, một nhà xuất khẩu Bờ Tây Mỹ đã trở lại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tuần này và bán 2 lô hàng khối lượng lớn. Gía khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận là 279 USD/tấn CFR. Phí vận chuyển các lô hàng lớn là 28-29 USD/tấn, tương đương mức giá 250 USD/tấn FOB Bờ Tây Mỹ cho phế HMS.
Không có lô hàng lớn nào được chốt từ các thương nhân Mỹ cho thị trường Đông Á. Gía chào bán dự báo tăng cùng với giá phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhưng chỉ có vài giá chào trên thị trường.
Một nhà máy Thái Lan gần đây nhận được chào bán phế khối lượng lớn Mỹ tại mức 270 USD/tấn. Nhà máy này quyết định chờ đợi. Tuy nhiên, có thể nhà máy này buộc phải chấp nhận giá này nếu không có giá chào thấp hơn. Nhà máy này đã chào mua phế khối lượng lớn tại mức 263 USD/tấn CFR trong tuần 20/4.
Các giao dịch với thị trường Đông Nam Á diễn ra ở mức 260-265 USD/tấn CFR. Hay nói cách khác, thị trường Đài Loan không đặt mua phế khối lượng lớn lúc này do thị trường thép cây trì trệ dẫn tới cắt giảm giá mua phế.
Mặc dù tâm lý thị trường phế suy yếu song giá quặng tăng, giá thép Trung Quốc cao hơn và phế Nhật Bản bình ổn sau Lễ.
Trong ngày 8/5, Platts mở rộng giá phế HMS khối lượng lớn xuất khẩu Đông Á lên mức 255-265 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 255-260 USD/tấn CFR.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng, Châu Á vẫn trầm lắng
Gía nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trong tuần qua với phế HMS tăng 11 USD/tấn, đạt mức 287 USD/tấn CFR trong ngày 8/5.
Gía phế tăng góp phần thúc đẩy giá thép cây tăng tại Thổ Nhĩ Kỳ, tạo động lực hỗ trợ lớn cho các nhà máy xuất khẩu trong bối cảnh xây dựng lắng xuống trước cuộc bầu cử tổng thống ngày 7/6.
Thị trường phế Đông Á vẫn trầm lắng. Trong khi dự báo giá chào phế khối lượng lớn đã tăng với xu hướng tăng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Có vài giá chào phế khối lượng lớn đạt mức 270 USD/tấn CFR Thái Lan.
Gía quặng sắt và giá thép Trung Quốc đã tăng lên trong mấy tuần gần đây. Trong ngày 8/5, Platts tăng giá phế HMS lên mức 255-265 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 255-260 USD/tấn CFR.
Tại Nhật Bản, các thương nhân mua phế tại mức 24.500 Yên/tấn (204.7 USD/tấn) FAS vịnh Tokyo để thu mua phế H2 xuất khẩu, không đổi so với tuần trước. Nhà máy thép Tokyo Steel Manufacturing vẫn duy trì giá mua phế tại mức 25.500 Yên/tấn (213 USD/tấn) tại các xưởng Utsunomiya tại Bắc Kanto.
Vài nhà máy mini Hàn Quốc mà dẫn đầu là Hyundai Steel vẫn chưa mua phế Nhật Bản tuần qua sau Lễ.
Các nhà máy thép đã mua lại phế Nhật Bản. Các nguồn tin đang chờ kết quả từ cuộc đấu thầu của Kanto Tetsugen diễn ra ngày 12/5. Gía dự thầu cao nhất là 25.200 Yên/tấn FAS.
Tại Đài Loan, các nhà nhập khẩu đặt mua H2 tại mức 225 USD/tấn CFR, tương đương mức 190 USD/tấn (22.743 Yên/tấn) FOB, giảm 5-10 USD/tấn so với tuần trước. Tuy nhiên, giá vẫn quá thấp cho các nhà máy Nhật Bản.
Trong khi đó, tại thị trường Hàn Quốc, Hyundai và DongKuk Steel Mill sẽ cắt giảm giá mua phế xuống 5.000 Won/tấn (4.5 USD/tấn từ ngày 18/5.)
Gía thép cây Nga giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2014
Gía thép cây Nga đã giảm hơn nữa trong tuần qua sau khi suy yếu tuần cuối tháng 2. Gía giảm do áp lực tâm lý cộng với tiêu thụ thấp. Tuy nhiên, giá dự báo sẽ tăng lại trong tháng 6.
Mặc dù công suất sản xuất thép cây khá thấp do đơn hàng chậm. Một nhà máy cho biết vài khách hàng đã mua hơn những tháng trước trong năm nay. Điều này cho thấy người mua nghĩ rằng giá đã chạm đáy và hiện tại là thời gian tốt nhất để bổ sung hàng hóa.
Các nhà máy đã giữ nguyên giá giao dịch trong suốt tháng. Các thương nhân quan tâm tới việc đẩy giá xuống mức đáy do họ đang cố gắng tăng lợi nhuận.
Gía chào bán từ các nhà máy và thương nhân giảm còn 24.000 Rub/tấn (471 USD/tấn) đối với thép cây 12mm và 23.600 Rub/tấn (463 USD/tấn) cho loại 14mm giao tới Maxcova. Nếu không tính thuế VAT 185, giá tương đương mức 20.340 Rub/tấn (400 USD/tấn) và 20.000 Rub/tấn (393 USD/tấn).
Gía mới thấp hơn giá trước đó 640 Rub/tấn (13 USD/tấn). Nhờ tỷ giá bình ổn trong 2 tuần qua, 50-52 Rub/USD, giá thép tính theo đồng dolla giảm 15 USD/tấn so với 24/4. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là giá tháng này.
Trong ngày 8/5, Platts giảm giá thép cây 12-14mm xuống 650 Rub/tấn so với tuần trước đó, còn 20.000-20.350 Rub/tấn (393-400 USD/tấn) CPT Maxcova.
Taigang giảm giá mua FeCr tháng 05
Shanxi Taigang Stainless Steel đã giảm giá mua FeCr cho tháng 05 xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tháng trước còn 6.200 NDT/tấn, gồm 17% VAT và phí vận chuyển.
Động thái cắt giảm này nằm trong dự đoán của thị trường, một phần là bởi vì các nhà sản xuất thép không gỉ hàng đầu khác như Baosteel, Jiuquan Iron & Steel và Tsingshan Holding trước đó đều đã giảm 50 NDT/tấn so với tháng trước.
Hầu hết các nhà quan sát thị trường đều dự doán giá quặng giao ngay trong nước sẽ giảm thêm nữa sau lần cắt giảm mới đây nhất. Giá Cr 50% giao ngay trong nước được định giá bởi Platts không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 6.400-6.600 NDT/tấn gồm 17% VAT và phí vận chuyển.
Tuy giá thép không gỉ ở Châu Á gần đây đã phục hồi sau khi niken lên giá nhưng giá ferrochrome khó mà tăng. Nguồn cung được cho là sẽ tăng từ cuối tháng 05 hay tháng 06 khi giá điện giảm ở miền nam vào mùa mưa.
Đại diện từ Taigang không thể xác nhận nay giá mua tháng 05 nhưng nhấn mạnh mức tăng gần đây của giá thép không gỉ vẫn chưa chắc chắn. “Chúng tôi không nhìn thấy bất cứ sự cải thiện trong nhu cầu do giá tăng. Cũng thật khó để nói liệu lần tăng mới đây sẽ tiếp tục”, bà nói.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á phục hồi do niken cao hơn
Hôm thứ Sáu Platts định giá giao ngay cho CRC không gỉ của Đài Loan và Hàn Quốc loại 304 2B 2mm là 2.100-2.200 USD/tấn CFR các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á, tăng từ 2.080-2.100 USD/tấn CFR của một tuần trước do các nhà cung cấp nâng chào giá vì niken có giá cao hơn.
Chào giá CRC Đài Loan được nghe nói từ 2.150-2.300 USD/tấn CFR, còn của Hàn Quốc khoảng 2.200 USD/tấn CFR trong tuần trước. Mức giá này so với chào giá 2.100 USD/tấn CFR cho CRC từ cả hai nước này vào tuần trước đó.
Một số thương nhân ghi nhận sự gia tăng trong yêu cầu vào tuần trước nhưng cho biết thật khó để chốt các giao dịch tại chào giá cao hơn. Giá có thể giao dịch hôm thứ Sáu là 2.100-2.200 USD/tấn CFR.
Một thương nhân ở Đài Bắc đã chào giá 2.250-2.300 USD/tấn CFR trong tuần trước nhưng thừa nhận thật khó để chốt được hợp đồng trong phạm vi này. Ông đã bán khối lượng nhỏ với giá 2.200 USD/tấn CFR khu vực Châu Á vào tuần trước.
Một thương nhân ở Hong Kong cho biết nhà cung cấp Đài Loan đã nâng chào giá lên 50 USD/tấn vào tuần trước. Tuy nhiên, các khách hàng Trung Quốc của ông vẫn chưa muốn mua. “Người mua biết giá niken đã tăng nhưng họ không chắc liệu đà tăng này có bền vững hay không”, ông nói.
Một thương nhân khác ở Hong Kong cho biết ông không vội mua và sẽ chỉ chờ xem sao. “Cho đến nay vẫn không có sự phản ứng nào từ phía khách hàng chúng tôi về sự phục hồi của giá niken”, bà nói.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange vượt qua mức 14.000 USD/tấn trước đó - mức giá chưa từng nhìn thấy kể từ cuối tháng 03- chốt tại 14.500 USD/tấn. Nhưng sau đó lại giảm xuống còn 13.910-13.915 USD/tấn vào ngày 7/5.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 378 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ sáu, tăng 3 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy CIS bán được 20.000 tấn tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 375 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước. Một giao dịch khác từ Ukraina được chốt tại mức 390 USD/tấn CFR Aliaga. Cả hai giao dịch này tương đương mức 378 USD/tấn FOB Biển Đen. Hai nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá chào từ CIS đạt mức 375-380 USD/tấn FOB có thể chiết khấu cho các đơn hàng lớn và các đơn hàng giao nhanh.
Platts tăng giá phế thêm 3 USD/tấn.
Gía phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng theo giá nhập khẩu
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế tàu và DKP thêm 5-11 USD/tấn hồi cuối tuần qua cùng với giá nhập khẩu phế tăng.
Gía thu mua phế tàu tính theo đồng dolla từ các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng thêm 5 USD/tấn hồi tuần qua. Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ được chào tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 275-280 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn so với đầu tuần qua.
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng điều chỉnh giá mua phế DKP tính theo đồng Lira. Kardemir cũng tăng giá mua phế DKp thêm 25 TRY/tấn (9 USD/tấn), đạt mức 750 TRY/tấn (280 USD/tấn) vào ngày 8/5.
Bước chuyển này phản ánh cả sự tăng giá của giá phế nhập khẩu trong mấy tuần gần đây và sự biến động tỷ giá hối đoái. Phế HMS nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 281-284 USD/tấn CFR.
Một nhà máy EAF lớn, Colakoglu và nhà máy hợp kim Asil Celik tăng giá DKP cuối tuần qua thêm 30 TRY/tấn (11 USD/tấn), đạt mức 690 TRY/tấn (257 USD/tấn) và 720 TRY/tấn (268 USD/tấn).
Nhà máy tích hợp Eregli thuộc tập đoàn Erdemir cũng tăng giá mua phế thêm 25 TRY/tấn, đạt mức 765 TRY/tấn (284 USD/tấn) ngày 2/5.
Gía chào thép hình EU tăng
Các nhà máy thép hình Châu Âu dường như đã tăng giá thành công với mức tăng thông báo cách đây vài tuần. Như thông báo, ArcelorMittal đã tăng giá chào tháng 5 thêm 15 Euro/tấn hồi đầu tháng, đẩy giá thép hình loại 1 lên mức 530-540 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Trong tuần qua, các nhà máy khác gồm Celsa và CSN đã cùng tăng giá. Gía giao dịch trước đó đạt mức 520-530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, tuy nhiên, tuần qua các nhà máy này chào bán tại mức 525-530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng do các nhà máy giữ vững giá chào.
Người mua Benelux cho biết đã mua thép hình loại 1 tuần qua tại mức giá 525 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, tuy nhiên, ông đã trả thêm 5 Euro/tấn. Tất cả các nhà máy vẫn giữ vững giá chào bán. Tại Pháp, một người mua cho biết tất cả các nhà máy chào giá 530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá thép hình cỡ trung Châu Âu thêm 5 Euro/tấn, lên mức 530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế.
Gía xuất khẩu thép cây Nam Âu tăng nhẹ
Gía xuất khẩu thép cây Nam Âu tăng nhẹ do các nhà máy cố gắng đạt được giá chào cuối sau nhiều tuần thương lượng với người mua Algeria.
Sau khi giá phế tăng trong thnags 4, các nhà máy đã tăng giá chào thép cây trong nước và xuất khẩu thêm 10-15 Euro/tấn, đạt mức 420-425 Euro/tấn FOB.
Một thương nhân cho biết đã cố gắng chốt giá tại mức 418 Euro/tấn FOB Nam Âu, tương đương 443 Euro/tấn CFR cảng Algeria, và 422 Euro/tấn FOB. Một nhà máy khác cho biết đang nỗ lực chốt giá tại mức 420 Euro/tấn và 425 Euro/tấn FOB giao tháng 5.
Nhu cầu tiêu thụ trong tháng 4 trầm lắng trong khi đây thường là mùa tiêu thụ tốt, cho thấy mức giảm 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
Platts định giá thép cây FOB Med tại mức 419 Euro/tấn FOB, tăng 3 Euro/tấn.
Thị trường ống đúc Trung Quốc suy yếu do thép tròn đặc giảm
Thị trường ống đúc giao ngay ở Thượng Hải suy yếu do nhu cầu trì trệ cùng với nhiều thông báo rằng các nhà sản xuất thép tròn đặc hàng đầu sẽ cắt giảm giá xuất xưởng trong nước xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) cho 10 ngày đầu tháng 05.
Hôm 8/5, ống đúc giao ngay loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông có gía 3.100-3.150 NDT/tấn (499-507 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải, giảm khoảng 50-100 NDT/tấn (8-16 USD/tấn) so với ngày 24/4.
Các nguồn tin cho biết họ thấy ít sự cải thiện trong nhu cầu từ các ngành trực tiếp trong đó có máy móc và xây dựng ở tháng này. Hầu hết các thương nhân đều hạ chào giá xuống để kích cầu, phù hợp với chi phí nguyên liệu đầu vào thấp hơn.
Lần giảm giá thép tròn đặc gần đây nhất bởi các nhà máy ở miền đông là đợt cắt giảm thứ ba liên tiếp cho giá xuất xưởng 10 ngày, dẫn đến mức giá mới nhất thấp hơn khoảng 130-170 NDT/tấn so với đầu tháng 04.
Thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel giảm 50 NDT/tấn còn lần lượt 2.550 NDT/tấn và 2.500 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT. Giá của loại thép này từ nhà máy Huaigang Special Steel ở Giang Tô cũng bị giảm 50 NDT/tấn còn 2.520 NDT/tấn.
Khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ từ chối giá bán mới từ các nhà máy phôi thanh CIS
Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ được cho là sẽ từ chối giá chào bán mới từ các nhà máy phôi thanh CIS sau khi các nhà máy trở về từ Lễ Victoria Day ngày 12/5. Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ hầu như vẫn còn hàng tồn kho với phôi thanh bán trong nước từ nhà máy nội địa Kardemir là 400-405 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy CIS bắt đầu thử nghiệm thị trường với chào giá tăng, tuy nhiên, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ phải thận trọng. Do nhu cầu tiêu thụ thép cây tại từ ngoài nước vẫn thấp và họ phải đối mặt với khó khăn lớn từ chi phí sản xuất tăng.
Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tin rằng giá chào phôi thanh CIS sẽ không thu hút người mua trong tuần này do vấn đề thiếu hụt phôi thanh tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thuyên giảm với việc trở lại bán hàng của Kardemir.
Kardemir đã nhận được đơn hàng hơn 240.000 tấn phôi thanh trong 1 ngày và đã ngưng bán cùng ngày. Gía bán của nhà máy này là 400-405 USD/tấn. Gía chào phôi thanh từ CIS đạt mức 390-400 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu nhưng chào mua từ các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có 380 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, giá chào bán phôi thanh từ Trung Quốc cũng tăng 5 USD/tấn lên mức 365-370 USD/tấn CFR cuối tuần qua.
Thị trường thép cây Việt Nam cải thiện nhờ bước vào mùa xây dựng
Thị trường thép cây Việt Nam đã có nhiều cải thiện. Do đang bước vào mùa xây dựng nên nhu cầu thép xây dựng gia tăng. Dự báo hoạt động xây dựng sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi mùa mưa bắt đầu vào khoảng tháng 07.
Giá thép cây trong nước đã tăng lên khoảng 11.500-11.600 đồng/kg (530-535 USD/tấn) ở miền nam, và 11.000-11.100 đồng/kg ở miền bắc. Các mức giá này còn phụ thuộc vào từng nhà máy và chưa có VAT 10%.
“Thị trường đang ấm lên. Hiện đang vào mùa xây dựng”, một nhà kinh doanh ở Hà Nội cho biết. Ông ước tính giá thép cây ở miền nam và bắc cao hơn lần lượt 500 đồng/tấn và 200 đồng/tấn kể từ cuối tháng 03.
Năm ngoái, cả nước đã xuất khẩu khoảng 500.000 tấn thép cây sang các nước láng giềng như Campuchia.
Có rất ít nhà máy sản xuất bằng lò nung ở Việt Nam có thể bán sản phẩm của họ một cách cạnh tranh hơn so với nhà máy dùng công nghệ EAF. Chi phí phế cao đã khuyến khích nhà máy EAF dùng phôi thanh nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào thay vì tự sản xuất.
Phôi thanh Q235 xuất xứ Trung Quốc hiện được chào giá 355-360 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi phôi thanh trong nước được đề giá 8.800-9.000 đồng/kg. Việc xuất khẩu phôi thanh Việt Nam đã ngưng lại vì thị trường trong nước tốt hơn.
Theo Tổng cục thống kê, trong quý 1/2015, GDP của cả nước tăng lên 6.03% so với 5.06% của cùng kỳ năm ngoái, và đây là mốc cao nhất kể từ năm 2008.
Người mua khan hiếm nhưng giá HRC Mỹ vẫn cao
Hoạt động thu mua thép cán dẹt Mỹ đã suy yếu nhưng các nhà máy dường như vẫn cố giữ giá tăng gần đây.
Gía chào HRC dao động trong khoảng 460-480 USD/tấn tùy thuộc vào từng nhà máy. Một số lượng lớn người mua sẵn sàng trở lại thị trường với giá giao dịch 460 USD/tấn.
Một trung tâm dịch vụ cho hay gần đây đã mua các đơn hàng 500 tấn cả HRC và CRC với giá niêm yết là 460 USD/tấn và 580 USD/tấn.
Nếu tiêu thụ tăng và thời gian giao hàng tăng thì có thể các nhà máy sẽ lại thông báo tăng giá lần 2.
Các vụ kiện chống bán phá giá sẽ hỗ trợ giá tăng nhưng chưa chắc sẽ có vụ kiện xảy ra. Một người mua trả 460 USD/tấn cho đơn hàng HRC 50-150 tấn nhưng bởi vì nhà máy này giữ chắc giá. Thời gian giao hàng là chìa khóa quyết định độ thành công của giá tăng, thậm chí với các nhà máy khó tính.
Platts cũng tăng giá HRC lên mức 455-465 USD/tấn từ mức 450-460 USD/tấn trong khi CRC vẫn ở mức 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 405 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu vừa qua.
Gía chào bán từ các nhà máy lớn Châu Âu đạt mức 400-405 Euro/tấn xuất xưởng.
Gía chào bán HRC từ Nga và Trung Quốc vẫn ở mức 375-380 Euro/tấn CIF Antwerp, nhưng người mua ưa chuộng hàng nội địa hơn để tránh thời gian giao hàng kéo dài.
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc sụt giảm do sức mua trì trệ
Hôm thứ Sáu, giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục giảm trong ngày thứ hai. Sự cải thiện trong nhu cầu được kỳ vọng cho tháng 05 vẫn chưa thành hiện thực do đó các đại lý lại một lần nữa phải giảm giá để hấp dẫn người mua.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.290-2.300 NDT/tấn (369-271 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế gồm 17% VAT. Mức giá này giảm nhẹ 5 NDT/tấn so với thứ Năm tuần trước nhưng tổng mức giảm của cả tuần lên đến 30 NDT/tấn.
Sức mua yếu là nguyên nhân khiến giá lao dốc trong tuần qua. Nhiều người đã suy đoán sức mua trực tiếp sẽ cải thiện trong tháng này. Tháng 05 cũng là mùa cao điểm truyền thống cho hoạt động xây dựng ở Trung Quốc nên sẽ làm tăng nhu cầu thép nhưng tính đến thứ sáu tuần trước thì vẫn không có sự gia tăng nào về nhu cầu trở thành hiện thực.
Nhưng do tồn kho thị trường tiếp tục giảm nên khả năng giá giảm thêm sẽ bị hạn chế. Thật vậy, suốt hai tuần cuối tháng 04, giá thép cây ở thị trường giao ngay Bắc Kinh có sự thả nổi trong phạm vi hẹp từ 2.265-2.325 NDT/tấn.
Nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải Mysteel tính toán rằng tồn kho thép cây trên thị trường Bắc Kinh tuần trước đã giảm ở tuần thứ 8 liên tiếp, với mức giảm 28.100 tấn tức 6% so với tuần trước đó còn 450.500 tấn tính đến thứ sáu tuần trước.
Gía HRC và nguyên liệu thô tăng hỗ trợ giá phôi phiến CIS
Gía xuất khẩu phôi phiến CIS dường như tăng do các nhà máy Nga và Ukraina đang trở lại thị trường với giá chào bán phôi phiến tháng 6-7 tăng sau Lễ 10 ngày.
Gía chào mới đối với HRC Châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ cũng như sự cạnh tranh giá phế và quặng sắt. Trong nửa tháng qua, từ ngày 24/4-8/5, các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thêm 12 USD/tấn lên mức 445 USD/tấn xuất xưởng. Tại Châu Âu, giá HRC ở trong nước và nhập khẩu đều tăng 16 USD/tấn trong giai đoạn này.
Gía phế vẫn đang tăng. Phế HMS I/II nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng 20 USD/tấn trong tháng qua, từ mức 264 USD/tấn tới mức 283 USD/tấn CFR. Cùng thời điểm, giá quặng sắt 62% sắt đã tăng từ mức 48 USD/tấn lên mức 60 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
Tất cả các động lực này vẫn chưa đâỷ giá phôi phiến tăng đầy đủ, nhưng có thể tăng vào tuần tới hoặc từ ngày 12/5 khi các nhà máy CIS trở lại từ sau Lễ VE Day. Tuy nhiên, giá chào từ CIS đã tăng. Một nhà máy với nguồn phôi phiến có hạn đã từ chối giá dự thầu 320-325 USD/tấn CFR (305-310 USD/tấn FOB Biển Đen).
Các nhà máy muốn tăng giá phôi phiến là điều dễ hiểu do họ cần lợi nhuận cũng như trước khi giá xuất khẩu phôi phiến và HRC bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết khiến phí vận chuyển tăng. Ngoài ra, họ cũng tăng giá do Lễ Ramadan đang tới gần làm chậm lại mọi thứ.
Thêm vào đó, nhu cầu tiêu thụ thép Trung Quốc đã tăng 2% trong tháng này so với tháng 4. Điều này có thể giảm nhẹ sản lượng xuất khẩu Trung Quốc ra thế giới và đẩy giá HRC toàn cầu bật tăng. Do đó, mức tăng 10 USD/tấn của phôi phiến là có thể.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng giá phôi phiến có thể chạm mốc 335 USD/tấn CFR, tương đương mức 320 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong ngày 8/5, Platts tăng giá thêm 7 USD/tấn, đạt mức 305-315 USD/tấn FOB.
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ trông chờ vào thị trường Châu Phi và Caribbe
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với sức mua yếu ở Mỹ, trong khi các thương nhân lại ổn định hơn ở thị trường Châu Phi và Caribbe trong tuần qua. Giá HDG tới Mỹ vẫn không đổi vào tuần trước do các nhà xuất khẩu phải vất vả để tìm được khách hàng.
“Các nhà máy Ấn Độ thận trọng với việc xuất khẩu sang Mỹ do sợ Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ sớm bắt đầu các cuộc điều tra chống bán phá giá”, một nhà xuất khẩu ở Mumbai giải thích.
Chào giá Ấn Độ cho thép cuộn loại 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông được nghe nói là 700-725 USD/tấn CFR East Coast Mỹ trong tuần trước, không đổi so với một tháng trước. Không có giao dịch nào được nghe nói trong tuần qua.
Trong khi đó, các nhà xuất khẩu Ấn Độ phải chật vật để cạnh tranh với HDG Trung Quốc ở thị trường Châu Phi. Chào giá Ấn Độ cho HDG 0.19 mm khoảng 930 USD/tấn CFR Malawi trong khi chào giá Trung Quốc chỉ quanh mức 830 USD/tấn CFR Malawi.
Một thương nhân ở Delhi cho biết ông chỉ có thể bán khối lượng nhỏ khoảng 200 tấn HDG dày 0.2mm phủ 180 gram kẽm trên một mét vuông tới những khách hàng Ethiopia với giá 780 USD/tấn FOB Ấn Độ. Phí vận chuyển tới các cảng Châu Phi khoảng 200 USD/tấn.
Các nhà máy Ấn Độ cũng được hưởng sức mua tốt hơn tại quần đảo Caribbe. Thép slit coils của Ấn Độ được ưa chuộng ở Caribbe hơn là HDG của Trung Quốc do độ chính xác được yêu cầu trong loại thép này. Các nhà máy Ấn Độ cũng có thể cung cấp loại thép có độ phủ kẽm cao hơn từ 60-90 gram trên một mét vuông cho người mua ở Caribbe, nơi vật liệu chịu được thời tiết là quan trọng do khí hậu ẩm ướt.
Thương nhân ở Mumbai cho biết ông thường bán khoảng 1.000 tấn slit coils tới những người mua Caribbe khác nhau. Ông này đã bán một số loại thép mạ 60 gram kẽm dày 1.5mm tuần trước với giá 700 USD/tấn CFR. Gần đây ông cũng đã bán khoảng 500-600 tấn thép phủ 150 gram aluzinc dày 0.4mm với giá khoảng 745-750 USD/tấn USD/tấn.
Giá HRC Thượng Hải giảm do sức mua trì trệ
HRC tại các thị trường bán sỉ ở Thượng Hải giảm trong ngày thứ hai liên tiếp vào thứ Sáu tuần trước, do sức mua trì trệ cộng thêm giá quặng sắt suy yếu. Các chủ đại lý nghi ngờ giá sẽ không có bất cứ đà hồi phục nào vào tuần tới do nhu cầu chậm chạp.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải là 2.440-2.460 NDT/tấn (393-396 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Sáu, giảm 15 NDT/tấn so với thứ Năm và đây là mốc thấp nhất kể từ ngày 24/4.
HRC Q235 5.5mm được sản xuất từ Yanshan Iron & Steel được giao dịch với giá 2.440 NDT/tấn xuất xưởng. Loại thép này từ Anshan Iron & Steel được giao dịch với giá 2.460 NDT/tấn.
Nhiều chủ đại lý đã hạ chào giá xuống 10-20 NDT/tấn để kích cầu. Một số người đã thực sự nâng chào giá lên thêm khoảng 30 NDT/tấn thì chật vật cạnh tranh để có được hợp đồng.
Hầu hết mọi người đều giữ một triển vọng u ám về thị trường ngắn hạn, do nhu cầu trì trệ và khả năng quặng sắt sẽ còn giảm thêm nữa. Tuy nhiên, “giá HRC sẽ không giảm thêm nhiều vì vẫn còn quá thấp”, một thương nhân ở Thượng Hải dự báo.
Platts định giá IODEX 62% Fe giảm còn 59,5 USD/tấn CFR hôm 07/5 từ 61,25 USD/tấn của ngày trước đó.
Thị trường phôi thanh nhập khẩu bình ổn ở Đông Nam Á
Thị trường phôi thanh nhập khẩu Đông Nam Á duy trì ổn định trong suốt tuần qua. Tuy có một số giao dịch được nghe nói nhưng các nhà nhập khẩu trong khu vực tiếp tục thể hiện sự kiềm chế trong khi chào giá không đổi.
Ở Việt Nam, nghe nói việc thu mua của nhà máy EAF hàng đầu hôm thứ Năm cho phôi thanh Q235 150mm Trung Quốc với giá 356 USD/tấn CFR. Công ty này trước đó đã đặt mua phôi thanh Q255 150mm với giá 343 USD/tấn hồi giữa tháng 04. Phôi thanh Trung Quốc trong suốt tuần kết thúc ngày 27/4 có giá 360-365 USD/tấn CFR nhưng chào giá đã giảm vào tuần sau đó còn 355-360 USD/tấn CFR.
“Thị trường đã bình tĩnh lại”. Một thương nhân cho biết khách hàng trong khu vực đã chấp nhận mức giá cao hơn một chút nhưng phản đối việc tăng giá nhiều hơn. Họ không chắc giá quặng sắt có thể tăng thêm hay không. Mặc dù thuế nhập khẩu là 9% cho phôi thanh Trung Quốc nhưng các nhà máy Việt Nam vẫn đang mua phôi thanh vì chi phí phế nhập khẩu cao.
Ở Thái Lan, phôi thanh Q235 130mm Trung Quốc được đặt mua trong suốt tuần kết thúc ngày 8/5 với giá 372-373 USD/tấn CFR và phôi thanh Q275 là 377 USD/tấn CFR. Giá đặt mua ở Thái Lan cho phôi thanh không phải của Trung Quốc tăng lên 380 USD/tấn CFR, trong khi chào giá cao hơn. Phôi thanh của Nga và Ấn Độ được chào giá 385 USD/tấn CFR với chào giá cho phôi của Đài Loan là 390 USD/tấn CFR.
Ở Philippines không có giao dịch nào được nghe nói thực hiện. Phôi thanh Trung Quốc 130mm được chào giá không đổi trong hai tuần qua với giá 375-380 USD/tấn CFR. Các thương nhân cho biết người mua vẫn không sẵn lòng trả với giá mà người Trung Quốc đưa ra. Phôi thanh Q235 được đặt mua với giá 370-375 USD/tấn CFR Manila trong suốt tuần kết thúc ngày 01/5.
Platts duy trì giá hàng tuần cho phôi thanh Đông Á nhập khẩu ở mức 370-380 USD/tấn CFR hôm 08/5, tức mức trung bình 375 USD/tấn CFR.