Bản tin phế tuần: tâm lý thị trường lo lắng do phế Mỹ ổn định
Tâm lý thị trường phế toàn cầu tuần qua lo lắng do sự im ắng tại thị trường nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ cũng như giá phế Mỹ ổn định.
Xu hướng giá thay đổi nhanh tại thị trường Mỹ. Sau dự báo giá tăng 30 USD/tấn hồi đầu tháng thì giá chỉ ổn định.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng im ắng mấy tuần nay do lễ Eid. Các thương nhân đã bắt đầu thu mua với giá ổn định hoặc giảm sau đó trở về mốc trước lễ.
Thị trường phế khối lượng lớn Đông Á vẫn hoạt động, với hai lô hàng lớn giao dịch ở mức 351 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Hồi đầu tuần, giá chào phế HMS khối lượng lớn ở mức 355 USD/tấn CFR.
Tại Việt Nam, các nhà máy trì hoãn đơn hàng với giá chào cùng mức với Hàn Quốc. Giá đặt mua phế khối lượng lớn tại Việt Nam trong ngày 25/8 là 350 USD/tấn CFR Việt Nam cho phế HMS I/II 80:20.
Đối với phế khối lượng nhỏ Mỹ, một nhà máy Việt Nam đã đặt mua ở mức 3.000-5.000 tấn phế tại mức 305-310 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày thứ tư.
Platts giảm giá phế HMS I/II 80:20 khối lượng lớn Đông Á xuống 350-354 USD/tấn CFR trong ngày thứ tư từ mức 350-356 USD/tấn CFR tuần trước đó, giảm 1 USD/tấn.
Hyundai Steel giữ giá chào mua phế H2 Nhật tại mức cũ tuần trước đó trong khi Dongkuk chào mua tại mức 32.000 Yên/tấn FOB nhưng khối lượng đơn hàng chưa được xác nhận.
Hyundai cho mua phế H2 Nhật tại mức 32.500 Yên/tấn (302 USD/tấn) FOB, không đổi so với tuần trước. Nhà máy này đặt mua khoảng 30.000-40.000 tấn phế.
Một thương nhân tại Nagoya đã dự báo giá mua của Hyundai sẽ bằng với Dongkuk và ngạc nhiên với giá chào 32.500 Yên/tấn hôm thứ sáu.
Các thương nhân trả 31.000-31.500 Yên/tấn FAS cho phế H2 xuất khẩu từ miền đông Nhật Bản, giảm từ mức 31.500 Yên/tấn ngày thứ tư.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing mua phế H2 tại mức 32.500 Yên/tấn.
Platts giảm giá xuất khẩu phế H2 Nhật xuống 500 Yên/tấn còn 32.500 Yên/tấn FOB Vịnh Tokyo.
Thị trường phế EU suy yếu hơn dự báo trong tháng 9
Giá phế tháng 9 EU sẽ được đàm phán vào tuần này, và trong khi giá dự báo tăng thì tâm lý thị trường đã hạ nhiệt phần nào.
Các nguồn tin dường như bỏ qua dự báo giá tăng 25-30 Euro/tấn hồi cuối tháng 8 do thị trường xuất khẩu im ắng. Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng giá tăng tầm 10-15 Euro/tấn.
EU đã xuất khẩu các đơn hàng tới Thổ Nhĩ Kỳ trước lễ Eid . Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ hiện ổn định kể từ 25/8 sau khi dự báo sức mua tăng sau lễ đã không thành hiện thực.
Một thương nhân Pháp cho biets, trong tuần trước, ông nghĩ giá tăng 20-30 Euro/tấn nhưng tuần này chỉ tăng 10-15 Euro/tấn. Ông sợ nếu tăng giá thêm 30 Euro/tấn vào tuần này thì giá tháng 10 sẽ giảm nữa, có thể 40 Euro/tấn. Do đó, tốt nhất giá chỉ tăng 15 Euro/tấn vào tháng này và bình ổn trong Q4.
Tương tự, mức tăng 15 Pound/tấn dự báo ở Anh trong tháng này. Có nhiều nguồn cung có sẵn do sự trì trệ đơn hàng từ lễ và các nhà máy ngưng sản xuất.
Thị trường thép dài Châu Âu tăng giá từ cuối tháng 8 và đầu tháng 9, do các nhà máy tin rằng giá nguyên liệu thô tăng.
Platts định giá phế vụn E40 EU tháng 8 ở mức 270-275 Euro/tấn tại Bắc Âu.
Giá phế vụn Mỹ ổn định vào tháng 9
Các nhà buôn bán phế Mỹ tiếp tục giữ nguyên giá chào bán so với tháng 8 tại thị trường Midwest do tâm lý lạc quan biến mất khỏi thị trường. Nhiều nhà máy chào mua phế ở mức như cũ trong ngày thứ năm và các nhà cung cấp dần chấp nhận.
Trước đó, các nguồn tin lạc quan dự báo rằng giá phế tháng này sẽ tăng ít nhất 20 USD/tấn so với tháng 8. Do đó, trước thời điểm tuần trước, nhiều nhà cung cấp đã từ chối giá chào mua phế tăng 20 USD/tấn ở vài khu vực.
Bão lũ đã làm thay đổi thị trường do nguồn cung phế tăng lên và các nhà máy giảm giảm mua vào vì bảo trì.
Các nhà cung cấp phế vụn đã tăng giá chào bán trước dự báo thị trường mạnh lên. Sau đó, các nguồn này phải thu hồi lại giá tăng trong tuần qua.
Tại thị trường Southeast, vài nhà máy trả thêm 10 USD/tấn cho phế vụn và cắt và 10-20 USD/tấn cho phế chất lượng cao.
Vài nhà máy từ chối chào bán nhiều, chỉ bán ít phế cho các nhà máy trong nước sau khi giá không đổi.
Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng 20 USD/tấn kể từ tuần cuối tháng 8. Một nhà máy cho biết giá xuất khẩu tăng đã không hỗ trợ giá trong nước.
Bản tin than đá tuần: Thị trường im ắng do người mua chờ đợi
Giá than đá Châu Á- Thái Bình Dương giảm trong tuần qua do các nhà máy ngưng mua vào trước dự báo thị trường suy yếu.
Platts giảm giá than đá HCC chất lượng thấp xuống 2.25 USD/tấn còn 208.75 USD/tấn FOB Úc vào tuần qua trong khi giá giao tới Trung Quốc ổn định ở mức 190 USD/tấn CFR Trung Quốc trong ngày thứ sáu.
Các nguồn tin nghĩ rằng giá đã gần đạt đỉnh và giá sẽ giảm trong tháng 10 do cắt giảm sản xuất thép, vài lò cao sẽ phải ngưng sản xuất trong mùa đông trong khi cũng có sự cắt giảm thép trước kỳ họp Quốc hội khóa 19.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng tâm lý thị trường vẫn mạnh hỗ trợ giá.
Giá than cốc luyện kim tiếp tục tăng, ở mức 369 USD/tấn FOB Trung Quốc trong bối cảnh tiêu thụ mạnh từ các khách hàng ngoài nước, bao gồm Braxin và Úc.
Hầu hết các khách hàng Ấn Độ và Đông Nam Á có thể không chấp nhận giá tăng và chỉ tìm mua loại rẻ trong nước. Điều này có thể dẫn tới giá giảm 20-30% trong năm nay.
Tại thị trường than mềm PCI, nhà máy lớn nhất Nhật Bản là Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp. đặt mức giá than PCI chất lượng thấp Q3 ở mức 127.50 USD/tấn FOB Úc.
Các nhà máy lớn khác vẫn chưa có động thái gì. Nhiều người mua đã có đủ hàng dự trữ nên chưa vội.
Thép không gỉ Châu Á tăng theo giá niken
Platts tăng giá CRC không gỉ 304 2mm 2B nguồn gốc Đài Loan và Hàn Quốc thêm 95 USD/tấn trong tuần qua, đạt mức 2.350-2.400 USD/tấn CFR Đông và Đông Nam Á. Các nhà máy tiếp tục tăng giá chào bán theo giá niken cũng như đà tăng giá thép nội địa Trung Quốc.
Trong ngày thứ sáu, các nhà máy lớn Đài Loan đẩy giá chào lên từ mức 2.350 USD/tấn CFR. Chào giá tăng lên tầm 2.400 USD/tấn CFR sau khi giá thép nội địa Trung Quốc tăng thêm 700-800 NDT/tấn (108-123 USD/tấn) trong tuần.
Trong khi đó, giá chào từ Posco Hàn Quốc ở mức 2.450 USD/tấn CFR trong khi các nguyên liệu có thời gian giao hàng ngắn hơn tới nam Trung Quốc ở mức 2.370 USD/tấn CFR.
Tại Trung Quốc, nhà máy Taigang Stainless Steel dự báo thông báo giá xuất khẩu mới vào hôm nay ngày 11/9 với giá có thể giao dịch là 2.350 USD/tấn FOB. Chào giá từ Ningbo Baoxin Stainless Steel là 2.400 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu.
Vài thương nhân cũng cho rằng do sự tăng giá của đồng NDT nên giá chào bán của họ tăng thêm 20-30 USD/tấn.
Giá niken giao dịch bằng tiền mặt trên sàn LME tăng 415 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 12.030 USD/tấn trong ngày 07/9.
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định
Theo các nguồn tin thị trường, giá thép cuộn cán nóng của Mỹ đã giữ ổn định trong ngày thứ Sáu do thông báo tăng giá vài ngày trước không ảnh hưởng nhiều.
Nhà máy AK Steel đã công bố sẽ tăng giá giao ngay với mức tối thiểu là 30 USD/tấn, nhưng không có nhà máy nào khác hưởng ứng theo.
Một nguồn ngạc nhiên khi thấy AK tăng giá sau khi đã tăng 30 USD/tấn trước đó.
Một trung tâm dịch vụ cho biết ông chưa thấy giá tăng sau đợt tăng 30 USD/tấn hồi đầu tháng 8 vì ông vẫn có thể mua cuộn cán nguội tại mức 780 USD/tấn.
Giá gang thỏi CIS tăng trở lại
Thị trường gang thỏi CIS tăng trong tuần qua do giá giao dịch cao hơn so với tuần trước. Nhu cầu tiêu thụ hồi phục ở các quốc gia như Ý và Thổ Nhĩ Kỳ sau thời gian trầm lắng hỗ trợ cả hoạt động kinh doanh và giá cả mạnh mẽ hơn.
Giá chốt gần đây ở mức 390 USD/tấn CFR Ý giao tháng 10, theo một nhà máy. Một nguồn tin thị trường khác cho biết các nhà máy đã tăng mức giá chào lên 395 USD/ tấn CIF Ý/Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc khoảng 375 USD/tấn FOB Biển Đen / Biển Azov..
Chưa có đơn hàng nào mới sau khi các lô hàng gần đây chốt ở mức 387- 389 USD/tấn CFR Châu Âu.
Một nhà máy Ukraina đã nâng chào giá lên 395-400 USD/tấn CIF Châu Âu (375-385 USD/ tấn FOB) từ 390-395 USD/tấn CIF. Công ty ghi nhận một số đơn đặt hàng trong phạm vi mới nhưng chỉ "một chút".
Hôm thứ Sáu, Platts tăng giá gang thỏi CIS theo tuần lên 370- 380 USD/tấn, tăng tầm 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Các nhà máy Nga tăng giá thép cây
Các nhà máy Nga tăng giá chào bán thép cây tháng 9 trong nước để phản ánh sự gia tăng đáng kể của phôi thép xuất khẩu cho đến gần đây đã vượt qua giá thép cây Maxcova.
Các nhà máy đã thu được giá 38.500-38.520 Rub/tấn (674- 675 USD/tấn) cho loại 12mm và 38.000-38.110 Rub/tấn (665- 667 USD/tấn) cho loại 14mm đã tính thuế, tăng khoảng 3.400 Rub/tấn (60 USD/tấn) so với tuần trước.
Platts tăng giá cây hàng tuần của Nga lên 32.200-32.600 Rub/tấn (563- 570 USD/tấn), tăng 3.350 Rub/tấn (59 USD/tấn). Sự tăng giá này làm cho thép cây của Nga cao hơn giá phôi thanh tới 55 USD/tấn hôm thứ sáu.
Đối với xuất khẩu, các nhà máy CIS chào bán ở mức 540-550 USD/tấn FOB Biển Đen, phù hợp với giá xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ là 550 USD/tấn FOB.
Khách hàng đã bắt đầu chấp nhận giá cao hơn vì tin tưởng rằng thị trường sẽ vẫn mạnh mẽ trong vài tháng nữa. Bây giờ họ nhận ra nếu họ không mua ngày hôm nay, họ sẽ phải trả nhiều hơn vào ngày mai, một nguồn tin nhận định.
Thép dây CIS cuối tháng 10 chào bán ở mức 570 USD/ tấn FOB Biển Đen, tăng gần 50 USD/tấn so với tháng 9. Một nhà máy Nga cho biết đã bán thép cuối tháng 9 với giá 540-545 USD/tấn FOB Biển Đen, cho biết giá của Trung Quốc là động lực chính đằng sau động thái này.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tập trung trở lại vào thị trường xuất khẩu thép cây sau lễ
Hoạt động giao dịch trở lại chậm chạp hơn dự báo sau lễ Eid đã chuyển hướng các nhà máy tới thị trường xuất khẩu thay vì chỉ tập trung vào trong nước trước đó.
Nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng nhưng không mạnh như trước lễ. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ từ ngoài nước dường như đang phục hồi.
Một nguồn tin cho biết có vài giao dịch gần đây chốt ở mức 550-560 USD/tấn FOB tới Nam Á và Ai Cập trong tuần này. Khối lượng không lớn nhưng các đàm phán đang tiếp tục và có thể sẽ chốt sớm. Nhu cầu tiêu thụ từ thị trường xuất khẩu đang phục hồi và giá chào thấp nhất là 550 USD/tấn FOB.
Một nhà máy khác cho biết giá chào mua tầm 540-550 USD/tấn FOB. Ông cho rằng giá giao dịch thực tế tầm 550-555 USD/tấn FOB.
Một khách hàng Châu Âu đang cân nhắc giá chào 550 USD/tấn FOB và sẵn sàng chấp nhận nó, miễn là giao nhanh không phải cuối tháng 10 hoặc 11 do vài giá chào bán đã được lập kế hoạch. Ông lo ngại giá tại thị trường Châu Âu sẽ suy yếu trở lại do hoạt động xây dựng trì trệ vào Q4.
Giá chào từ các nhà môi giới lại suy yếu do sự tăng giá của đồng Lira so với USD. Giá chào tại Iskenderun ở mức 2.270-2.280 TRY/tấn (666.01-668.88 USD/tấn) đã tính thuế trong khi tại Istanbul ở mức tương tự, cùng giảm 35-40 TRY/tấn (10-12 USD/tấn) so với đầu tuần.
Giá thế giới tăng hỗ trợ tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ
Vài nhà máy tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá chào tấm mỏng nội địa và xuất khẩu trong bối cảnh thị trường lạc quan.
Một nhà máy chào bán tại mức 600-610 USD/tấn xuất xưởng hồi đầu tuần nhưng giá tiếp tục tăng và giá niêm yết ở mức 620-630 USD/tấn xuất xưởng.
Giao dịch gần đây chốt ở mức 620-625 USD/tấn xuất xưởng nhưng nhu cầu tiêu thụ chậm. Các đơn hàng nhìn chung bán cho các nhà máy thép ống. Tuy nhiên, giá dự báo tăng lên 635 USD/tấn xuất xưởng vào tuần tới do tâm lý thị trường thế giới lạc quan.
Vài đơn hàng HRC khối lượng thấp chốt ở mức 605-610 USD/tấn FOB tuần này. Giá chào mua từ các khách hàng ngoài nước là 580-585 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ từ chối.
Do giá niêm yết các nhà máy tăng mạnh 30-35 USD/tấn cùng với giá nhập khẩu tăng gần bằng giá trong nước.
Các nhà máy thép mạ tiếp tục tăng giá chào. Một nhà máy lớn ở Marmara tăng giá chào HDG thêm 30-40 USD/tấn tùy vào độ dày do HRC tăng.
Một nhà máy tăng giá chào HDG 0.5mm lên 865 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 1.0mm đạt mức 800 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, một nhà máy thép mạ lớn ngưng bán vào hôm thứ sáu. Có thể nhà máy này sẽ mở bán lại vào hôm nay.
Nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu chậm lại mấy ngày nay do người mua chờ đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn trong khi cố gắng hấp thụ giá tăng.
Nhu cầu tiêu thụ tấm dày Ấn Độ tăng
Nhu cầu tiêu thụ từ các công ty khoáng sản và trong lĩnh vực sản xuất Ấn Độ tăng thúc đẩy tiêu thụ tấm dày.
Nhu cầu mua tấm gia nhiệt và dập tăng từ các nhà máy sản xuất thiết bị xây dựng tại Ấn Độ chẳng hạn như Caterpillar, ThyssenKrupp và Larsen & Toubro sản xuất các thiết bị khai khoáng và vận chuyển như xe tải, máy xúc, máy kéo…
Giá tấm dày Q&T xuất xưởng Mumbai tăng lên 100.000 Rupees/tấn (1.567 USD/tấn) trong tháng này, tăng lên từ mức 88.000 Rupees/tấn tháng 1. Tuy nhiên, khối lượng đơn hàng tấm dày Q&T nhìn chung nhỏ hơn.
Tiêu thụ tấm dày Ấn Độ nhìn chung tăng 6.6% so với cùng kỳ năm ngoái, lên mức 1.62 triệu tấn trong tháng 4-7. Nhu cầu tiêu thụ tấm dày từ ngành sản xuất nồi hơi và nồi áp suất cũng như máy móc thiết bị cũng tăng. Nhìn chung, doanh số bán tấm dày SAIL tăng 31% so với năm ngoái lên 210.000 tấn trong tháng 8.
Trong khi đó, nhập khẩu tấm dày Ấn Độ tháng 4-7 giảm 28% so với cùng kỳ năm ngoái còn 166.810 tấn. Sự sụt giảm trong nhập khẩu tấm dày do các chống bán phá giá áp dụng bởi chính quyền New Delhi trong tháng 5 cho tấm dày thương phẩm nhập khẩu dưới mức giá 561 USD/tấn.
Mặt khác, các nhà máy Ấn Độ tăng chào bán xuất khẩu tấm dày do giá thế giới tăng thu hút các nhà máy. Xuất khẩu tấm dày trong tháng 4-7 tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái lên 120.910 tấn.
Phôi thanh Đông Nam Á tiếp tục tăng
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á tiếp tục tăng dựa vào tâm lý thị trường mạnh, chủ yếu ở Trung Quốc. Các nhà máy tăng giá chào bán và nhiều giao dịch diễn ra ở mức cao.
Tại Manila, một đơn hàng 6.000 tấn phôi thanh 130mm X 12 m Việt Nam chốt ở mức 550 USD/tấn CFR. Gía chào ở mức 558 USD/tấn CFR giao tháng 10. Người mua tiếp tục mua tại mức này nhưng khối lượng hạn chế.
Phôi thanh Ấn Độ và Nhật Bản nghe chào ở mức 545 USD/tấn CFR Manila hồi đầu tuần này. Thuế nhập khẩu phôi thanh các nước trong Asean thấp hơn các nước khác.
Một thương nhân Thái Lan nghe có đơn hàng 20.000 tấn phôi thanh Q255 150mm Trung Quốc chốt ở mức 545 USD/tấn CFR Thái Lan giao nhanh trong ngày thứ tư.
Tại Indonesia, phôi thanh Thái Lan nghe chào ở mức 560 USD/tấn CFR. Chào giá các nước khác ở mức 550-555 USD/tấn CFR trong khi giá đặt mua ở Indonesia cuối tháng 8 là 540-544 USD/tấn CFR.
Platts tăng giá phôi thanh 120/130mm CFR Đông Á thêm 5 USD/tấn, đạt mức 545-550 USD/tấn CFR trong ngày thứ năm.
HRC Châu Á ổn định do giá thép Trung Quốc suy yếu
Các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào xuất khẩu HRC ổn định sau đà tăng 2 ngày trước do giá trong nước giảm.
Platts duy trì giá chào xuất khẩu HRC SS400 3.0mm Trung Quốc tại mức 596 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi giá nội địa Trung Quốc tăng 41 USD/tấn lên 606 USD/tấn CFR Đông Á.
Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải xuống 25 NDT/tấn so với thứ năm, còn 4.240-4.260 NDT/tấn (657-660 USD/tấn) xuất xưởng kèm thuế trong ngày thứ sáu.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 1 chốt giảm 66 NDT/tấn còn 4.151 NDT/tấn.
Hầu hết các nhà máy lớn giữ giá chào ở mức 595-625 USD/tấn FOB. Giá thị trường tương đối cao nên người mua lo ngại đặt hàng và chờ xem giá tuần này thế nào.
Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy lớn giữ giá chào HRC SAE 1006 2.0mm giao tháng 11 tại mức ổn định 625 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 10 USD/tấn).
Các khách hàng Việt Nam cố gắng chào mua ở mức 580-585 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE sản xuất bởi Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, giá chào mua quá thấp và người bán từ chối.
Bản tin quặng tuần: giá quặng cám giảm nhưng quặng chất lượng cao tăng
Thị trường quặng sắt giao ngay vẫn tiếp tục chia rẽ vào ngày cuối tuần với nhu cầu tiêu thụ và giá trái ngược đối với quặng chất lượng cao và chất lượng thấp.
Các đồn đoán về cắt giảm sản xuát thép trước kỳ họp Quốc hội khóa 19 vào 18/10 sắp tới sẽ dẫn tới tiêu thụ quặng giảm. Platts giảm giá quặng cám IODEX 62% sắt xuống 60 cents so với ngày trước và 2.95 USD/tấn so với tuần trước, còn 74.15 USD/tấn CFR Trung Quốc hôm thứ sáu.
Tuy nhiên,nhu cầu từ lò cao giúp giá quặng chất lượng cao tiếp tục tăng.
Chênh lệch quặng viên lò cao giao ngay so với quặng cám IODEX chứa 62% sắt tăng lên 41.50 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc, tăng 5.60 USD/tấn so với tuần trước và là mức cao nhất kể từ tháng 7/2015.
Quặng cục cũng tăng nhờ nguồn cung thắt chặt và tiêu thụ mạnh, cũng lên mức kỷ lục. Platts định mức chênh lệch quặng cục giao ngay với quặng cám là 0.4370 USD/tấn, tăng 0.1110 USD/tấn (25%) so với tuần trước.
Nhu cầu tiêu thụ quặng cục giao ngay đặc biệt mạnh do các nhà máy thu mua tích trữ trước Kỳ họp Quốc hội.
Sương mù khắc nghiệt dường như xuất hiện sớm hơn vào năm nay trong khi Kỳ họp Quốc hội sắp tới nên mọi người muốn chắc rằng không khí ở Bắc Kinh phải sạch trước 18/10.
Nếu chênh lệch giá quặng chất lượng thấp và cao tiếp tục tăng, quặng cám có thể thu hút các nhà máy trở lại. Tuy nhiên, không nhiều người đồng tình quan điểm trên vì giá thép mạnh và thắt chặt ô nhiễm không khí có thể kéo giá quặng cám giảm còn quặng chất lượng cao tiếp tục tăng.
Vài nguồn tin vẫn lạc quan về triển vọng giá thép trong dài hạn. Trong khi giá thép nội địa suy yếu một chút mấy tuần qua, giá xuất khẩu tăng mạnh nhất là HRC do người mua tăng giá chào trong bối cảnh điều kiện thị trường tốt.
Mặc dù thiếu giao dịch nhưng giá chào thép cây nhập khẩu vào Mỹ vẫn tăng
Mặc dù thiếu giao dịch nhưng giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ vẫn tăng trong khi giá nội địa Mỹ rẻ hơn.
Một nhà phân phối cho biết, thị trường nhập khẩu vẫn im ắng. Giá trong nước rẻ hơn giá nhập khẩu nên không ai nhập hàng.
Giá chào nhập khẩu hiện tại đạt mức cao 600 USD/tấn CFR (544 USD/tấn). Giá xuất xưởng trong nước ở mức 540-560 USD/tấn sau đà tăng gần đây dựa vào giá phế tăng. Tuy nhiên, giá phế tháng 9 hiện tại ổn định.
Một nhà phân phối cho biết không có nhiều giá chào nhập khẩu. Điều tra 232 tiếp tục ảnh hưởng tới thị trường dù kết quả đang bị trì hoãn. Cuộc điều tra này bắt đầu hồi tháng 4 nhằm mục tiêu kiểm tra xem thép nhập khẩu có đe dọa an ninh quốc gia hay không, và kết quả có thể dẫn tới áp dụng thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu hoặc cả hai.
Dựa vào giá chào tăng, Platts tăng giá nhập khẩu thép cây vào Mỹ từ 496-514 USD/tấn lên 514-533 USD/tấn CIF Houston.
Người mua tăng chào giá, hỗ trợ giá thép cây Châu Á nhích nhẹ
Giá thép cây Châu Á nhích nhẹ 5 USD/tấn vào hôm thứ sáu do các khách hàng ngoài nước buộc phải tăng giá chào để đuổi theo giá chào bán. Platts tăng giá thép cây BS500 xuất khẩu thêm 2 USD/tấn, đạt mức 560-564 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, mức cao nhất kể từ đầu năm 2013.
Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Đài Loan tăng giá chào bán theo các nhà máy Trung Quốc. Họ chào bán ở mức 575, 580 và 585-590 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế, cho thép cây 10-40mm giao tháng 10.
Một nhà máy phía bắc Trung Quốc tăng giá chào lên 605 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế cho thép cây 10-40mm giao tháng 11. Giá gần mức 595 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 10 USD/tấn. Theo các nguồn tin, có thể chốt đơn hàng ở mức 570-575 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế (560-565 USD/tấn FOB).
Tại Singapore, giá chào thép cây 10-40mm Trung Quốc ở mức 580 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 580 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 17 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng. Mức giá lý tưởng cho người mua tầm 555-560 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết (555-560 USD/tấn0 FOB trọng lượng thực tế.
Các nhà xuất khẩu chọn cách giữ giá ở mức cao do họ lạc quan về triển vọng sắp tới cũng như giá thép trong nước vẫn cao. Một nhà máy khác ở miền đông tăng giá chào thêm 5 USD/tấn so với đầu tháng lên 575 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tương đương 593 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 3% chênh lệch khối lượng.