Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 12/5/2017

Thị trường tấm mỏng Mỹ dao động trong biên độ giá rộng

Giá HRC và CRC giao ngay Mỹ dao động trong biên độ rộng và xu hướng giá có phần suy yếu.

Giá bán HRC trên thị trường dao động trong khoảng 600-630 USD/tấn, nhưng phổ biến nhất là 620 USD/tấn. CRC ở mức thấp 810 USD/tấn nhưng cũng có giá chào bán các đơn hàng khối lượng vừa và nhỏ ở mức 840-850 USD/tấn. Tuy nhiên, vẫn có các chào mua khối lượng lớn, cho thấy sức mua vẫn mạnh.

Một nhà máy cho biết đã giảm giá chào bán CRC xuống còn 810 USD/tấn từ mức 830 USD/tấn tuần trước.

Ủy Ban Thương mại Mỹ đang tiến hành điều tra mục 232 cho hàng nhập khẩu và sẽ có báo cáo về các biện pháp bảo hộ cũng như mức thuế, Tổng thống Trump cho biết.

Một trung tâm dịch vụ cho rằng giá đã giảm so với tuần trước. Mặc dù CRC ở mức 820 USD/tấn nhưng hai nhà máy đang sẵn sàng bán HDG ở mức 800 USD/tấn. Trung tâm này đã mua HDG ở mức 800 USD/tấn và HRC ở mức 620 USD/tấn.

 Platts vẫn giữ giá HRC và CRC lần lượt tại mức 600-630 USD/tấn và 840 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Thị trường HRC Châu Á bình ổn

Cả hai bên mua và bán trên thị trường HRC Châu Á vẫn giữ giá của mình trong ngày hôm qua, do xu hướng giá nội địa Trung Quốc biến động khiến người mua mất phương hướng. Platts cũng duy trì giá HRC SS400 dày 3mm tại mức 418 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 10 NDT/tấn so với thứ tư, còn 3.040-3.060 NDT/tấn (440-443 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT.

Một nhà máy miền Đông Trung Quốc sẵn sàng bán HRC SS400 tại mức giá 420 USD/tấn FOB nhưng chưa có giao dịch trong ngày hôm qua. Người mua không chấp nhận trả mức này vì chưa rõ xu hướng thị trường.

Các nhà máy Trung Quốc vẫn giữ giá chào bán ở mức 420-430 USD/tấn FOB cho HRC SS400, cho thấy họ không vội giảm giá vì chưa biết được xu hướng giá ngày mai ra sao.

Một nhà máy ở miền Bắc được nghe là đã bán 4.000-5.000 tấn HRC SS400 tại mức giá 430 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, khách hàng Việt Nam chỉ dự thầu ở mức 424 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày hôm qua.

Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy miền Đông đã chốt được đơn hàng 10.000 tấn tại mức 430 USD/tấn FOB nhưng chưa có thông tin cụ thể. Một nhà máy miền Bắc chào bán loại này tại mức giá 430 USD/tấn FOB giao cuối tháng 6.

Giá HRC Trung Quốc sụt giảm do nhu cầu thấp

Giá HRC Thượng Hải suy yếu trong ngày hôm qua do tình hình tiêu thụ thấp. Giá biến động cũng gây hoang mang cho người mua, buộc họ chờ đợi xu hướng rõ ràng hơn.

Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống 10 NDT/tấn so với ngày thứ tư, còn 3.040-3.060 NDT/tấn (440-443 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT. Thị trường yên ắng và không có giao dịch nào trong ngày thứ năm.

Trong khi đó, nhà máy Baosteel đã quyết định giảm giá xuất xưởng cho HRC và CRC thương phẩm giao tháng 6 xuống 100-300 NDT/tấn và 150-260 NDT/tấn.

Giá trong nước của HDG và thép mạ điện giao tháng 6 cũng giảm 150-260 NDT/tấn.

Việc các nhà máy giảm giá chứng tỏ sự suy yếu trong nhu cầu tiêu thụ hạ nguồn. Điều này mang lại tin tưởng rằng giá còn giảm nữa.

Giá xuất khẩu các đơn hàng phế khối lượng nhỏ Bờ Tây duy trì ổn định

Giá xuất khẩu phế nung chảy HMS khối lượng nhỏ của Mỹ tới Đài Loan vẫn ổn định trong tuần này trong khi các đàm phán phế xuất khẩu Trung Quốc tiếp tục khuấy động thị trường.

Sau khi chốt ở mức 240-245 USD/tấn CFR Đài Loan vào cuối tháng 4, giá phế HMS giao bằng xe container (khối lượng nhỏ) Mỹ giảm còn 230 USD/tấn đầu tháng 5 và tăng lên 235-237 USD/tấn CFR trong ngày hôm qua. Hoạt động thị trường nhìn chung im ắng.

Trong khi đó, giá quặng sắt, than đá, HRC và phôi thanh Trung Quốc đều suy yếu. Ngoài ra, việc xuất khẩu phế Trung Quốc cũng sẽ gây tác động tiêu cực tới thị trường.

Một thương nhân Châu Âu nghe được chào giá phế vụn Trung Quốc tới Đài Loan ở mức 245 USD/tấn CFR. Chênh lệch giá phế HMS Bờ Đông Mỹ với phế vụn cũng đang tăng. Một nhà cung cấp chào bán tại mức thấp 205 USD/tấn FAS cho phế HMS. Số khác chào bán tại mức 215-220 USD/tấn FAS trong khi phế vụn khối lượng nhỏ được dự thầu tại mức cao 270 USD/tấn FAS.

Phế HMS dường như đang tồn ở Bờ Đông do một nhà tiêu thụ lớn tại đây chỉ thu mua một lượng nhỏ phế vì nhà máy đang bảo trì.

Một nhà cung phế Bờ Tây cho biết, các nhà máy hứa hẹn sẽ thu mua nhiều vào tháng 6 để bù lại lượng thu mua thấp của tháng 5. Tuy nhiên,điều này không thể làm thị trường lạc quan vì rõ ràng là họ đã giảm thu mua trong 2 tuần qua.

 Giá phế vụn tăng nhờ tiêu thụ từ Ấn Độ và Pakistan tăng, với giá mua ở mức 295 USD/tấn CFR dành cho các đơn hàng nhỏ trong tuần này.

Giá thép cây Châu Á ổn định trong bối cảnh tiêu thụ thấp

Thị trường thép cây xuất khẩu Châu Á ổn định trong ngày hôm qua do người mua không mặn mà lắm với các chào bán ngày hôm qua vì đã có đủ thép dự trữ. Platts cũng duy trì giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm tại mức 400-410 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với hôm thứ tư.

Tại Hong Kong, giá chào từ một nhà máy ở mức 435 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 425 USD/tấn FOB, phí vận tải 10 USD/tấn.

Một nhà môi giới trong nước cho biết không có nhu cầu vì đã có đủ hàng dự trữ đủ bán trong 3-4 tháng. Một nguồn tin dự báo rằng giá sẽ giảm vì chi phí sản xuất giảm, tình hình xuất khẩu suy yếu và mùa mưa cận kề.

Giá chào tới Singapore ở mức 435 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 433 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 16 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.

 Nhu cầu tiêu thụ rất im ắng. Giá dự báo giảm trong tháng 5 và 6 vì người mua đã trữ đủ nguyên liệu. Giá chào mua thấp hơn 400 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương  dưới 396 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế. 

Nhà máy Hesteel Trung Quốc giảm giá thép cây trong nước

  Tập đoàn thép Hesteel Group chuyên sản xuất thép xây dựng ở miền Bắc Trung Quốc thông báo giảm giá niêm yết thép cây xuống 70 NDT/tấn (10 USD/tấn) trong giai đoạn 11-20/5. Giá sau khi giảm còn 3.500 NDT/tấn (507 USD/tấn) cho thép cây đường kính 18-25mm.

 Giá trên áp dụng cho thép sản xuất từ các xưởng tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel vàChengde Iron & Steel của Hesteel bán ra các khu vực Bắc Kinh và Thiên Tân. Giá tính theo giá xuất xưởng và trọng lượng lý thuyết đã gồm thuế VAT.

Theo ước tính giá trọng lượng thực tế của Platts thì giá mới của Hesteel tương đương 3.608 NDT/tấn.

  Bảng niêm yết giá xuất xưởng thép cây của Hesteel

              (NDT/tấn, trọng lượng lý thuyết)

 

Đường kính

 

Giá ngày 1-10/5 (NDT/tấn)

 

Giá ngày 11-20/5 (NDT/tấn)

 

18 mm

 

3.570

 

3.500

 

20-22mm

 

3.570

 

3.500

 

25mm

 

3.570

 

3.500

 

Shagang giữ nguyên giá các đơn hàng thép cây giữa tháng 5

Tập đoàn Shagang Group tỉnh Giang Tô đã thông báo duy trì giá niêm yết thép cây bán ra trong giai đoạn 11-20/5.

Như vậy, giá bán thép cây HRB400 đường kính 16-25mm ổn định ở mức 3.450 NDT/tấn (500 USD/tấn) đã tính thuế 17% VAT. Tương tự, giá bán thép dây HPB300 6.5mm cũng duy trì tại mức 3.410 NDT/tấn đã tính thuế.

Shagang quyết định giữ giá trong bối cảnh thị trường thận trọng khi gần về cuối tháng, ghi nhận tình hình tháng 5-7 là mùa tiêu thụ thấp điểm.

Triển vọng thị trường vẫn trong xu hướng bất ổn kể từ đầu tháng, do các hoạt động đầu cơ trên thị trường giao kỳ hạn.

Các nhà máy lớn khác gồm Yonggang và Zenith cũng chọn cách tăng giá thép cây giữa tháng 5 thêm 50 NDT/tấn.

Hợp đồng giao tháng 10 trên sàn SHFE giảm 17 NDT/tấn, tầm 0.6% trong ngày thứ năm, chốt ở mức 3.060 NDT/tấn.

Các nhà nhập khẩu Philippines tìm cách giảm giá thu mua phôi thanh Trung Quốc

Khoảng cách giữa giá chào mua của các khách hàng Manila với giá chào bán phôi thanh từ Trung Quốc vẫn là nguyên nhân chính kìm hãm giao dịch. Các nhà nhập khẩu Manila đang tìm cách giảm giá thu mua xuống 20 USD/tấn trong ngày hôm qua.

Hầu hết giá chào cho phôi thanh Q275 120/130mm giao tháng 6 ở mức 425-430 USD/tấn CFR Manila. Một thương nhân Manila cho biết, một khách hàng bảo Ông rằng có giá chào 410 USD/tấn CFR Philippines cho 5.000 tấn, tuy nhiên một thương nhân khác cho rằng không có chào giá này. Theo một thương nhân nhận định thì giá trên chỉ có thể là giá bán khống.

Giá chào bán phôi thanh Q275 120mm Nhật Bản từ các thương nhân Trung Quốc tới Philippines ở mức 400 USD/tấn CFR. Một thương nhân cho rằng giá này là quá thấp cho phôi thanh Nhật và nghĩ rằng giá phải ở mức 420 USD/tấn CFR.

Một thương nhân Manila vẫn đang cố gắng xác nhận giá chào phôi thanh Nhật trên thị trường vì mức 400 USD/tấn là thực sự thu hút. Người mua đang chờ đợi giá phôi thanh Trung Quốc ổn định.

Trong khi đó, sự cố chìm tàu chờ phôi thanh nhổ neo từ Cebu gần đây không ảnh hưởng tới thị trường Philippines vì khối lượng nhỏ. Theo các báo chí địa phương, xà lan này chờ khoảng 1.700 tấn phôi thanh và gặp tai nạn khi cách vịnh Barangay Cansojong, thành phố Talisay 2.2km vào sáng chủ nhật.

Giá thép ống đúc Trung Quốc ổn định cùng với thép tròn đặc

Thị trường thép ống đúc giao ngay Trung Quốc ổn định trong ngày hôm qua do các thương nhân giữ giá để chờ xu hướng thị trường rõ ràng hơn. Các nhà máy thép tròn đặc cũng thông báo giữ nguyên giá hoặc chỉ tăng nhẹ cho giai đoạn 11-20/5 để bán cho các nhà máy thép ống.

Như vậy, trong ngày hôm qua, nhà máy Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel, hai nhà máy lớn ở tỉnh Giang Tô duy trì giá thép tròn đặc 20# 50-130mm tại mức 3.600 NDT/tấn (521 USD/tấn) và 3.550 NDT/tấn (514 USD/tấn) cho các đơn hàng giữa tháng 5 (giá xuất xưởng đã tính thuế VAT).

Cùng ngày, một nhà máy khác là Huaigang Special Steel cũng tại Giang Tô thông báo tăng giá thép tròn đặc thêm 30 NDT/tấn lên 3.600 NDT/tấn đã tính thuế.

Giá chào bán thép ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) tại thị trường bán lẻ Thượng Hải đạt mức 4.200-4.300 NDT/tấn xuất xưởng đã gồm thuế, không đổi so với tuần trước.

Thị trường thép nội địa đã bất ổn kể từ đầu tháng này, do ảnh hưởng từ giá giao kỳ hạn. Hiện tại, các thương nhân mong muốn giữ giá để kích cầu, do chi phí sản xuất không đổi và tiêu thụ thấp.

NSSC tăng giá CRC Ferritic nhưng duy trì giá austenitic

Nhà máy Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) thông báo tăng giá CRC Ferritic thêm 5.000 Yên/tấn (44 USD/tấn) trong khi vẫn giữ giá austenitic không đổi.

Nhà máy này chưa đưa ra bình luận gì thêm trong ngày hôm qua nhưng theo công ty cho biết, giá niken trong tháng 3-4 giảm 0.21 USD/lb so với tháng 2-3, còn 4.52 USD/lb trong khi ferrochrome giảm 5.5 cents/lb còn 167.5 cents/lb.

Với xu hướng tăng nhẹ của giá đồng Yên trong cùng giai đoạn, NSSC quyết định giảm giá CRC austenitic xuống 10.000 Yên/tấn trong khi giảm ferritic xuống 5.000 Yên/tấn để phản ánh phí phụ gia giảm. Tuy nhiên, sự thắt chặt cán cân cung-cầu dẫn công ty tới quyết định tăng giá trở lại thêm 10.000 Yên/tấn cho cả hai loại trên. Đo dó, austenitic thì trở về giá cũ còn Ferritic tăng thêm 5.000 Yên/tấn.

Một nhà môi giới Tokyo cho biết, các nhà máy không gỉ đang hạn chế công suất và thời gian giao hàng tăng. Nhu cầu tiêu thụ thép CRC không gỉ ổn định và xu hướng này còn tiếp tục.

NSSC cho biết, mức tăng tổng tính từ tháng 6 năm ngoái tới nay của công ty đã lên tới 60.000 Yên/tấn đối với loại austenitic còn CRC Ferritic thêm 70.000 Yên/tấn. Trong khi đó, giá thị trường chỉ tăng 40.000 Yên/tấn cho CRC austenitic và 30.000 Yên/tấn cho ferritic.

NSSMC không tiết lộ giá niêm yết, nhưng giá thị trường hiện tại cho CRC 304 dày mm ở Tokyo là 340.000 Yên/tấn (2.975 USD/tấn), tăng 10.000 Yên/tấn so với tháng trước trong khi loại 430 ở mức 270.000 Yên/tấn (2.362 NDT/tấn), không đổi so với tháng trước.

Trong khi đó, công ty này sẽ giảm giá thép tấm austenitic xuống 10.000 Yên/tấn cho đơn hàng tháng 5 để phản ánh giá phụ phí giảm.

500 Euro/tấn dự báo là điểm đáy của HRC Châu Âu

Thị trường thép cuộn Châu Âu vẫn đang suy yếu, nhưng theo các đại biểu tại hội nghị Eurometal dự báo, giá sẽ không giảm sâu với điểm đáy là 500 Euro/tấn.

Trong khi áp lực hiện hữu tại các vùng trung và đông Âu thì các nguồn tin chú ý tới sự rút khỏi thị trường nhập khẩu của Nga và khả năng giá thép cuộn giảm sẽ làm tăng các cuộc điều tra của EU cho hàng nhập khẩu.

Trong khi đó, một thương nhân dự báo giá HRC Châu Âu sẽ xuống dưới 500 Euro/tấn nhưng đồng tình rằng áp lực hàng nhập khẩu đã giảm. Khó khăn lớn nhất cho thị trường Châu Âu là nguồn cung từ Nga một khi EC không áp thuế. Tuy nhiên, cánh cửa thu mua thép Nga đang đóng lại do các nhà máy này phần lớn đã rút khỏi thị trường.

Nhiều khách hàng đã mua HRC khối lượng lớn từ Nga ở mức 480-490 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng xét về thời gian giao hàng cho thấy họ không còn chào bán nữa.

Hồi tháng 1, EC đã ra lệnh hạn chế nhập khẩu từ Braxin và Nga nhưng không áp thuế chống bán phá giá sơ bộ, nên nhập khẩu có thể tăng lại khi không có thuế. Do đó, vẫn có người mua được thép nhập khẩu.

Tuy nhiên, dù không áp thuế chống bán phá giá sơ bộ thì người mua lo lắng sẽ có thuế cuối cùng được áp dụng và cả truy thu thuế.

Trong bài phát biểu của mình, Ông Alexander Julius của tập đoàn Macrometal Đức cho biết: “ Đây là trường hợp đầu tiên Ủy ban EU thực sự xem xét nhu cầu của các nhà tiêu thụ cuối và bị họ chống đối.” Tuy nhiên, EC cho biết 500 Euro/tấn sẽ là giá đáy. Nếu giá có xuống dưới mức này thì sẽ áp thuế chống bán phá giá.

Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ ổn định sau đợt cắt giảm tuần trước

Giá niêm yết tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung ổn định trong tuần này sau đợt cắt giảm tuần trước, trong khi sức mua vừa phải.

Các nhà máy duy trì giá HRC ở mức 515-520 USD/tấn và vẫn có chiết khấu cho các đơn hàng lớn. Tuy nhiên, giá xuất khẩu dễ đàm phán hơn vì áp lực cạnh tranh gay gắt. Theo các nguồn tin cho biết thì giá mua các đơn hàng lớn có thể dưới 500 USD/tấn FOB.

Xuất khẩu HRC Thổ Nhĩ Kỳ Q1 năm nay tăng mạnh 31% so với cùng kỳ năm ngoái nhờ tiêu thụ từ các nước Châu Âu tăng đáng kể.

Giá chào HRC CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ cũng ổn định ở mức 455-465 USD/tấn CFR trong tuần này. Vài đơn hàng đã được chốt ở mức này nhưng thị trường nhập khẩu nhìn chung vẫn im ắng vì vài khu vực đang trong lễ.

Trong khi đó, giá HDG xuất khẩu và nội địa giảm thêm vào tuần qua vì tiêu thụ thấp trong nước và áp lực cạnh tranh ngoài nước. Các nhà máy thép mạ nhìn chung vẫn giữ giá niêm yết vào tuần này. Giá chào HDG 0.5mm bình ổn ở mức 710-730 USD/tấn xuất xưởng còn 1mm ở mức 640-660 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, vẫn có chiết khấu cho các đơn hàng lớn và tùy vào điều kiện thanh toán.

Giá chào xuất khẩu thép mạ thấp hơn giá trong nước 10-15 USD/tấn.

Thị trường thép dài Châu Âu suy yếu khi bước vào đầu mùa tiêu thụ cao điểm

Thị trường thép dài Châu Âu tiếp tục xu hướng suy yếu do ảnh hưởng từ giá nguyên liệu thô và sức mua. Các nhà máy đã không thành công đối với chào giá mới cho các đơn hàng tháng 5 và giá bán đã giảm 10-20 Euro/tấn trong tháng tùy vào từng sản phẩm.

Các nguồn tin ngạc nhiên về sự trầm lắng của thị trường, do đã bắt đầu bước vào mùa tiêu thụ cao điểm. Tình hình thị trường tháng này năm ngoái cải thiện trong khi sự suy yếu của thị trường tháng 4 tiếp diễn trong tháng 5 năm nay khiến nhiều người cắt giảm giá bán. Một nhà phân phối được cho là đã mạnh tay giảm giá bán, có vẻ như do đã mua trữ khá nhiều trước đó.

Các nhà máy Nam Âu vẫn đang chờ đợi Chính quyền công bố giấy phép nhập khẩu thép cây của Algeria. Do đó, họ tăng cạnh tranh trong nước, lan rộng ra cả phía Bắc. Tại Pháp, thép cây đường kính 12mm có giá 170-180 Euro/tấn xuất xưởng (đã tính phí bốc hàng), tương đương 265 Euro/tấn giá giao thực tế, giảm 20 Euro/tấn trong 2 tuần qua trong khi giá thép cây Đức giảm 5 Euro/tấn so với tuần trước, còn 185 Euro/tấn xuất xưởng.

Giá từ Ý ở mức 110-120 Euro/tấn xuất xưởng mặc dù vài nhà máy đang nhận dự thầu dưới 100 Euro/tấn xuất xưởng.

Giá xuất khẩu vẫn ổn định tại mức 405-410 Euro/tấn FOB cảng Địa Trung Hải, nhưng chưa có đơn hàng nào được chốt vì tập trung vào giấy phép Algeria. Theo ghi nhận từ vài nguồn tin, Thủ tưởng Algeria sẽ công bố giấy phép nhập khẩu trong mấy ngày tới.

Platts giảm giá thép cây hàng ngày xuống 2 Euro/tấn, còn 440-450 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Trong khi đó, tại thị trường thép dây kéo, định giá hàng tháng giảm 20 Euro/tấn còn 455 Euro/tấn giá giao thực tế ở Bắc Âu trong khi giá nhập khẩu là 445 Euro/tấn CIF cảng Nam Âu. Giá này cũng được nghe ở cảng  Amsterdam.

Thép thanh thương phẩm cũng giảm 10 Euro/tấn so với tháng trước, trong khi vài nhà môi giới mua đơn hàng khối lượng vài xe tải với giá xuất xưởng ở mức thấp 40 Euro/tấn. Tuy nhiên, các nhà máy cung cấp thép thanh thương phẩm nhiều kích cỡ vẫn giữ giá chào ở mức 60 Euro/tấn xuất xưởng Bắc Âu.

Một nguồn tin cho biết, giá giảm nhẹ trong 2 tuần qua. Ông đã dự thầu mức 40 Euro/tấn xuất xưởng tới một nhà máy Tây Ban Nha và có thể mua được vài xe tải hàng từ nhà máy này. Tuy nhiên, với các đơn hàng thép thanh thương phẩm kích cỡ đặc biệt thì phải trả 60 Euro/tấn.

Platts giảm giá thép thanh thương phẩm Châu Âu theo tháng xuống còn 480 Euro/tấn giá giao thực tế. Thép hình cũng giảm với giá trung bình 500-510 Euro/tấn giá giao thực tế, trong khi một khách hàng báo giá từ nhà cung cấp là 490 Euro/tấn, mức giá hồi tháng 11/2016.

Định giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ

Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 430 USD/tấn FOB trong ngày hôm qua.

Hai nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho biết sẽ giữ giá chào bán ở mức 435-440 USD/tấn FOB Marmara. Tuy nhiên, chưa có giao dịch nào diễn ra. Người mua thậm chí còn không chào giá ở mức 430 USD/tấn FOB.

Một nhà môi giới ở UAE cho biết chào giá từ Thổ Nhĩ Kỳ là 430 USD/tấn CFR Jebel Ali trọng lượng lý thuết. Tuy nhiên, ông hoãn mua hàng nhập khẩu vì giá nội địa giảm.

Một nguồn tin ở Mỹ cho hay thị trường nhập khẩu thép Thổ Nhĩ Kỳ rất chậm chạp. Chào giá ở mức 530 USD/tấn CIF Vịnh Gulf, tăng so với tuần trước nhưng không có giao dịch.

Định giá phôi thanh CIS

Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phôi thanh CIS tại mức 393 USD/tấn trong ngày hôm qua.

Hai lô hàng 5.000 tấn và 10.000 tấn được một nhà máy mini Ukraina bán sang Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 385 USD/tấn thanh toán trước một phần. Giá này cho thấy mức giá có thể giao dịch cho phôi thanh CIS là 391-393 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán theo thư tín dụng.

Một nhà máy nga đang tìm cách bán phôi thanh CIS tháng 6 tại mức 400 USD/tấn FOB nhưng chưa chốt. Nhà máy này được cho là sẵn sàng bán với giá 393 USD/tấn FOB. Một nhà máy khác chào tại mức 400 USD/tấn FOB trong khi giá người mua chấp nhận chỉ 390-395 USD/tấn FOB.

Nguồn cung hạn chế giúp đẩy giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ lên cận mức 500 USD/tấn

Nhu cầu tiêu thụ trong nước mạnh, cộng với nguồn hàng sẵn có hạn chế ở vài khu vực đã hỗ trợ giá thép cây tăng mạnh vào hôm qua. Giá chào từ các nhà môi giới tăng 50-70 TRY/tấn (14-20 USD/tấn), đạt mức 490-500 USD/tấn xuất xưởng.

Các nhà máy tăng nhẹ giá niêm yết thép cây và thép dây trong suốt tuần. Thông báo tăng giá mới nhất từ nhà máy Icdas trong khi vài nhà sản xuất khác như Kardemir ngưng nhận đơn hàng sau khi đã bán được với giá cao hơn. Giá niêm yết từ các nhà máy này ở mức cao 470-472 USD/tấn xuất xưởng đã tính thuế VAT. Tuy nhiên, do nguồn cung hạn chế nên giá tiếp tục tăng và đã gần cán mốc 500 USD/tấn vào hôm qua.

Giá chào thép cây 12-32mm từ các nhà môi giới ở Marmara tăng lên mức cao 2.120 TRY/tấn đã tính thuế còn tại Iskenderun, giá tăng lên 2.100 TRY/tấn. Các giá này đã tính thuế, tương đương mức 500 USD/tấn và 494 USD/tấn chưa thuế.

Một nhà máy cho rằng xu hướng tăng này là tạm thời vì sức mua trong nước tăng. Nhiều nhà máy xuất khẩu đã bỏ thị trường ngoài nước và chuyển vào bán trong nước, do đó có thể đẩy nguồn cung tăng lại. Ngoài ra, các nhà máy cũng đang hoạt động hết công suất để kiếm lời.